06302025Thứ 2
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THÁI (BẬC TIỂU HỌC) SƠN LA: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

I. Đặt vấn đề

     Sơn La là một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc anh em sinh sống. Trong đó nổi bật hơn cả là dân tộc Thái với dân số đông và đặc biệt là với nền văn hóa phong phú, văn hóa Thái được coi là đại diện cho văn hóa vùng Tây Bắc. Dân tộc Thái đứng số 2 về dân số trong 53 dân tộc thiểu số Việt Nam với 1.328.725 người (theo thống kê năm 2009), cư trú chủ yếu ở các tỉnh vùng Tây Bắc như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và 2 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Tiếng Thái là ngôn ngữ đơn tiết, có thanh điệu. Chữ viết của người Thái có tự dạng Sanscrit được vay mượn từ Ấn Độ và được chế tác thành bộ chữ riêng. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về chữ Thái ở Việt Nam trong đó ý kiến đáng chú ý hơn cả là của Nguyễn Kim Thản có 3 loại chữ Thái: chữ Thái Tây Bắc, chữ Thái Thanh Hóa và chữ Thái Nghệ An. Cùng với sự phát triển của xã hội, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ngày được nâng cao, đặc biệt khi sử dụng ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày có sự giao thoa với các ngôn ngữ của dân tộc khác trong khu vực sinh sống trong đó có tiếng Việt. Đây cũng là điều kiện thuận lợi của quá trình dạy học Tiếng Việt, tuy nhiên các em học sinh dân tộc Thái khi học và sử dụng tiếng Việt vẫn mang những âm hưởng, những dấu ấn do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ và nó tác động không nhỏ đến sự phát triển lời nói cho trẻ trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. Vì vậy, thấy được thực trạng và những ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ với các em học sinh dân tộc Thái trong sử dụng tiếng Việt và đưa ra một số giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả phát triển lời nói cho học sinh dân tộc Thái ở Sơn La sẽ góp phần tích cực thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đề ra.

II. Nội dung

1. Thực trạng

     Chương trình Tiếng Việt đang thực hiện trong trường tiểu học hiện nay được xây dựng trên nguyên tắc dạy học tiếng Việt cho người học tiếng mẹ đẻ. Những phương pháp dạy học tiếng Việt trong chương trình là phương pháp dạy học tiếng mẹ đẻ. Học sinh dân tộc ở các vùng miền học tiếng Việt phải tuân theo phương pháp đặc trưng của môn học, các giáo viên dạy Tiếng Việt ở tiểu học có trách nhiệm dạy theo các phương pháp của bộ môn đã được quy định. Như vậy, việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của các em học sinh dân tộc sẽ gặp nhiều khó khăn bởi thực tế so với các em học sinh người Kinh học tiếng Việt với tư cách học tiếng mẹ đẻ, các em có nhiều điểm khác biệt:

     - Trước khi đến trường các em chỉ sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để giao tiếp và phát triển nhận thức. Vốn tiếng Việt của các em rất ít (cá biệt có những em ở vùng sâu, vùng xa còn chưa biết tiếng Việt). Phần đông các em sử dụng tiếng Việt khi  giao tiếp còn chưa chuẩn xác, còn mắc nhiều lỗi về phát âm, dùng từ…Khi đến trường, các em học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm của tiếng mẹ đẻ.

     -  Mật độ và số lượng các cuộc giao tiếp bằng tiếng Việt của các em không nhiều, các em chủ yếu giao tiếp bằng tiếng Việt với thầy cô, bạn bè trong trường học, thời gian còn lại các em giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ với cộng đồng nơi các em đang sinh sống. Do đó, trình độ và kỹ năng tiếng Việt của các em cũng bị hạn chế.

     - Theo xu hướng tự nhiên, những thói quen khi sử dụng tiếng mẹ đẻ được học sinh đưa vào quá trình dạy học tiếng Việt. Hệ quả là những yếu tố giống nhau giữa tiếng Việt và tiếng Thái sẽ tạo điều kiện thuận lợi còn những yếu tố khác nhau sẽ là sự khó khăn cho học sinh khi học tiếng Việt. Đó cũng là những nguyên nhân khiến học sinh dân tộc Thái còn mắc lỗi khi học tiếng Việt.

     Chẳng hạn: Người dân tộc Thái khi nói không phân biệt cặp phụ âm l-đ, b-v, hoặc họ thường phát âm nguyên âm dài ‘’oo’’,‘’ôô’’ nên khi nói hoặc đọc học sinh thường phát âm ‘’lao động’’ thành ‘’đao động’’ ,’’buổi chiều’’ thành ‘’vuổi chiều’’, ‘’không’’ thành ‘’khôông’’ ‘’lạnh cóng’’ thành ‘’đạnh cóong’’

     - Trong giao tiếp, một số từ không có trong vốn từ tiếng Thái nên có sự vay mượn từ tiếng Việt nhưng phát âm chệch đi nên vô tình học sinh cũng bị ảnh hưởng khi học tiếng Việt.

     - Ngoài ra, ý thức của phụ huynh học sinh đối với việc học tập của con mình còn chưa tốt. Họ chưa thực sự quan tâm, phối hợp với nhà trường để nâng cao hiệu quả sử dụng tiếng Việt cho trẻ.

2. Giải pháp

     Để nâng cao hiệu quả dạy học tiếng Việt và để học sinh dân tộc Thái học tiếng Việt một cách thuận lợi, ngoài việc vận dụng các phương pháp dạy học môn Tiếng Việt như chương trình qui định giáo viên có thể lưu ý đến đối tượng dạy học vì học sinh dân tộc học tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Đây là cơ sở để giáo viên thiết kế nội dung, lựa chọn phương pháp dạy học cho thích hợp. Sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng các em học sinh dân tộc Thái học tiếng Việt ở bậc tiểu học, chúng tôi đề xuất một số ý kiến sau:

     - Tổ chức thiết kế nội dung dạy học: có thể vận dụng quan điểm tích hợp khi thiết kế nội dung dạy học để tạo ra sự gắn kết giữa tri thức và kỹ năng hoặc tổng hợp các kỹ năng với nhau trong sử dụng tiếng Việt. Thiết kế dạy học cố gắng hướng tới các phương pháp và hình thức dạy học tổ chức các hoạt động phát huy tích cực, chủ động của học sinh, bước đầu luyện khả năng tự học, tạo nhiều cơ hội để học sinh giao tiếp bằng tiếng Việt qua hoạt động thực hành cụ thể như trò chơi ,đóng vai, thực hành đọc, nghe, nói, viết:

     Hiện nay, một số trường tiểu  học đóng trên địa bàn tỉnh Sơn La  thực hiện thí điểm mô hình  trường học mới Việt Nam (VNEN). Sau khi khảo sát sách giáo khoa, tài liệu “Hướng dẫn dạy học môn Tiếng Việt’’ và dự giờ các bài học tiếng Việt  ở tiểu học, chúng tôi thấy với cách thiết kế các hoạt động cơ bản trong tổ chức dạy học môn Tiếng Việt rất phù hợp với học sinh dân tộc học tiếng Việt, chúng ta nên chú ý các hoạt động:

     Hoạt động cơ bản: có tác dụng tạo hứng thú cho học sinh về nội dung bài học, giúp học sinh tái hiện kiến thức, kỹ năng đã có thu nhập kiến thức và kỹ năng mới qua các hoạt động cụ thể như: trải nghiệm, quan sát, thảo luận, phân tích, khám phá…

     Hoạt động thực hành; giúp học sinh củng cố rèn luyện kiến thức và kỹ năng đã học trong bài mới qua các hoạt động cụ thể để biến kiến thức và kỹ năng đã học thành kiến thức thành kiến thức và kỹ năng của chính bản thân học sinh.

     Hoạt động ứng dụng: giúp học sinh mở rộng và áp dụng kiến thức và kỹ năng tiếng Việt vào các tình huống cụ thể ở gia đình, cộng đồng học sinh  thấy được tính thiết thực của những điều đã học và khuyến khích được  học sinh giao tiếp bằng tiếng Việt ở gia đình và cộng đồng.

     Với thiết kế bài học như vậy rất thích hợp với đối tượng học sinh dân tộc học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai, nó vừa có tác dụng tăng cường kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho các em, vừa phù hợp với mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học.

     - Lựa chọn và điều chỉnh nội dung dạy học: tất nhiên nội dung dạy học phải tuân theo chương trình đã biên soạn nhưng với học sinh dân tộc vùng sâu, vùng xa cần quan tâm đến khả năng tiếp cận, trình độ tiếng Việt vốn có của các em. Thực tế cho thấy nếu dung lượng kiến thức, số lượng bài tập ở mỗi bài học quá lớn sẽ không thích hợp với việc thực hiện giờ học theo định hướng tổ chức hoạt động để học sinh có cơ hội biến những thông tin, kiến thức được học thành năng lực thực tiễn. Chính vì vậy khi thiết kế các hoạt động dạy học tùy theo đặc điểm đối tượng học sinh cụ thể, giáo viên có thể điều chỉnh hoặc bổ sung, thay thế ngữ liệu hoặc bài tập trên cơ sở tôn trọng mục tiêu dạy học. Để điều chỉnh nội dung bài dạy giáo viên cần cân nhắc để đảm bảo tính hiệu quả trong dạy học và cần lưu ý đến những yếu tố như mục tiêu bài dạy; xác định mối quan hệ giữa kiến thức, kỹ năng học sinh sẽ học với những kiến thức, kỹ năng học sinh đã có, đã được học; xác định thứ tự các thao tác cần thực hiện để có lời giải đúng và dự kiến những khó khăn mà học sinh có thể gặp khi làm bài. Những gợi ý đó giúp chúng ta có cơ sở để thay thế, cắt giảm hay điều chỉnh nội dung dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh mà vẫn đảm bảo mục tiêu dạy học. Ví dụ, khi ra một đề văn cần chú ý đến năng lực, hoàn cảnh sống, tâm tư tình cảm của các em nên không nhất thiết phải theo gợi ý sách giáo khoa đã soạn hoặc nếu những bài tập cùng dạng cùng mục đích thì có thể cắt giảm, ngữ liệu không điển hình thì có thể thay thế, những bài tập, câu hỏi khó hiểu, khó xác định nhiệm vụ thì giáo viên nên diễn đạt lại.

     - Lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp: Các nghiên cứu về giáo dục học đã kết luận chỉ khi nào người học tự giác, tích cực, tự lực, sáng tạo thì hoạt động học mới có kết quả.Với đối tượng dạy học là học sinh dân tộc tuổi còn nhỏ, tư duy trừu tượng chưa phát triển lại học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ 2 nên rất cần thiết chú ý đến phong cách học của học sinh, phong cách dạy của giáo viên với phương pháp chủ đạo: giáo viên tổ chức các hoạt động cho học sinh, tổ chức cho học sinh làm việc theo các hình thức khác nhau như tự làm việc, làm theo mẫu, thực hành giao tiếp, giải quyết tình huống, chơi trò chơi…Đặc biệt tăng cường sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi học tập, tăng cường sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh.

     Sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp giáo viên chú ý định hướng tăng cường tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh thực hiện các hoạt động như lắp ghép thông tin, giải đố, khảo sát, đóng vai, cùng giải quyết vấn đề thực tế dựa trên những thông tin cho trước nhằm tạo cơ hội cho học sinh hợp tác, chia sẻ và được thực hành giao tiếp thực sự. Muốn vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác sau:

     + Học sinh thực hiện các hoạt động: suy nghĩ, đọc, viết, quan sát, trả lời câu hỏi, vẽ… để thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ giáo viên đề ra.

     + Học sinh trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với bạn, với thầy.

     + Học sinh vận dụng những nội dung đã học vào thực tiễn giao tiếp.

     Cuối cùng, giáo viên thiết kế chuỗi các hoạt động để học sinh có thể thực hiện thuận lợi tự tích lũy, hình thành kỹ năng cần đạt.

     III. Kết luận

     Mục đích của dạy học Tiếng Việt trong nhà trường là học sinh hiểu và sử dụng tiếng Việt vào giao tiếp. Khi đến trường, điểm xuất phát trình độ tiếng Việt của các em học sinh dân tộc Thái rất khác so với các em dân tộc Kinh. Đây là một khó khăn cho cả người dạy và người học với chương trình chung, đại trà hiện nay. Vì vậy, việc dạy học tiếng Việt cho dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Thái nói riêng cần được quan tâm đúng mức từ phía xây dựng chương trình đến người thực hiện chương trình nhằm giúp người học nhanh chóng vượt qua rào cản ngôn ngữ để có thể nắm được nội dung các môn học trong trường tiểu học một cách thuận lợi tạo điều kiện cho các em học tiếp ở bậc sau, đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học, NXB Giáo Dục, 2006

2. Bộ giáo dục và Đào tạo, Tài liệu tập huấn dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam, Hà Nội, 2012

3. Bộ giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên: Phương pháp dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc, NXB Giáo Dục, 2006.