I . ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay thi pháp học là bộ môn khoa học nghiên cứu văn học rất được chú ý nghiên cứu, vận dụng ở nước ta. Tuy nhiên việc vận dụng thi pháp học trong giảng dạy Ngữ văn ở nhà trường phổ thông lại ít được chú ý tới, nhiều khi bị bỏ qua. Thi pháp văn học dân gian đã từng được nghiên cứu từ khá lâu và cũng đã được các nhà nghiên cứu văn học dân gian đánh giá cao, định hướng cho người dạy, học bộ phạn văn học truyền miệng này dựa trên cơ sở đặc trưng thi pháp riêng của nó nhưng tình trạng dạy và học văn học dân gian trong nhà trường phổ thông cũng ít được chú trọng. Thực tế này dẫn đến một thực tế khác là hiểu sai hoặc hiểu không hết giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học dân gian đó.
Khi bàn về thi pháp văn học dân gian, tác giả Chu Xuân Diên đã khẳng định “Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ pháp nghệ thuật miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người” [1,Tr 12].
Do tác phẩm văn học dân gian luôn tồn tại với hình thức thể loại. Mỗi thể loại văn học dân gian có cách phản ánh thực tại và thái độ đối với thực tế riêng. Thể loại do đó trở thành đơn vị cơ sở của văn học dân gian và là điểm xuất phát tất yếu của việc nghiên cứu văn học dân gian. Bởi vậy, khi vận dụng thi pháp văn học dân gian vào nghiên cứu văn bản tác phẩm cần bám chắc vào đặc trưng thi pháp của từng thể loại. “Ta chỉ có thể “giải mã” các tác phẩm văn học dân gian khi đặt nó trên cái nền chung của thi pháp thể loại” [2,Tr 13].
Trong chương trình Ngữ văn lớp 10 PTTH (cuốn Ngữ văn lớp 10, tập 1), có rất nhiểu tác phẩm văn học dân gian Việt Nam thuộc nhiều thể loại được đưa vào giảng dạy. Vì thế, vận dụng thi pháp văn học dân gian vào phân tích tác phẩm nhằm hiểu đúng văn bản tác phẩm văn học dân gian là một việc làm cần thiết.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Định hướng chung
Với kinh nghiệm cá nhân, tôi mạnh dạn đưa ra một định hướng chung để vận dụng đặc trưng thi pháp thể loại văn học dân gian vào phân tích tác phẩm văn học dân gian có trong chương trình lớp 10 PTTH nói riêng, ngoài chương trình nói chung để hiểu đúng giá trị thẩm mĩ của tác phẩm như sau:
- Xác định đúng thể loại, tiểu loại của văn bản tác phẩm.
- Dựa vào đặc trưng thi pháp của từng thể loại để tiến hành khảo cứu, tìm hiểu văn bản tác phẩm ở một số phương diện cụ thể như: nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật,...
- Phân tích giá trị thẩm mĩ của tác phẩm dựa trên cơ sở những tín hiệu thẩm mĩ chứa đựng trong văn bản. Chú ý tới những nét độc đáo nổi bật của tác phẩm.
- Có thể so sánh đối chiếu với những tác phẩm cùng đề tài trong thể loại để chỉ ra được sự tài hoa và độc đáo của dân gian, hoặc đối sánh đặc điểm thi pháp với thể loại khác nhằm khai thác hết nét khu biệt độc đáo của thể loại trong tác phẩm.
2. Một số đặc trưng thi pháp truyện cười dân gian
Tác giả Lê Trường Phát trong cuốn Thi pháp văn học dân gian đã định nghĩa về truyện cười như sau: “Truyện cười là truyện kể về những hiện tượng buồn cười, thể hiện ở hành vi của nhân vật (bao gồm cả hành vi nói năng) nhằm gây cười.” [2,Tr102]
Mỗi truyện cười hướng tới một đối tượng gây cười khác nhau và chứa đựng nội dung gây cười cùng những cung bậc tiếng cười khác nhau. Có truyện cười trào phúng, có truyện cười hài hước (truyện khôi hài). Mỗi tiểu loại của truyện cười lại có những đặc điểm thi pháp riêng để khu biệt. Sáng tác ra truyện cười, dân gian hướng tới mục đích chính là gây cười. Toàn bộ các yếu tố thi pháp truyện cười như kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật... đều phục vụ cho mục đích gây cười.
2.1. Kết cấu của truyện cười
Truyện cười dân gian có kết cấu ngắn gọn, thường chỉ khoảng 15 - 20 câu, ngắn thì khoảng 5 - 7 câu, trung bình khoảng dưới 10 câu. Tuy nhiên, mỗi truyện đều có kết cấu hoàn chỉnh: có mở đầu-có diễn biến-có kết thúc. Mô hình kết cấu cốt truyện có dạng một vở hài kịch.
Phần 1: Giới thiệu nhân vật - vai diễn, hoàn cảnh xuất hiện tình huống gây cười: nêu cái “xấu” - cái đáng cười, hành vi buồn cười ở nhân vật. (Tác giả dân gian thường đặt nhân vật vào hoàn cảnh phù hợp để nhân vật bộc lộ cái đáng cười của mình:
Phần 2: Diễn tiến của xung đột - tình huống gây cười hé lộ - trong cảnh huống cụ thể, biểu hiện qua hành vi của nhân vật (thắt nút)
Phần 3: Xung đột được giải quyết - tình huống gây cười bộc lộ, câu chuyện kết thúc (mở nút). Tiếng cười bật ra.
2.2. Nhân vật của truyện cười
Nhân vật của truyện cười là đối tượng của cái cười, của sự phê phán nên chứa đầy trong nó cái xấu, cái đáng cười. Thế giới nhân vật trong truyện cười phong phú, đa dạng nhưng không ai không có thói xấu, hay nhược điểm nào đó, bất kể đó là quan lại, người thường hay vua chúa, thánh thần, ma quỉ,… Việc lựa chọn kiểu nhân vật này trong truyện cười thể hiện quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người của tác giả dân gian. Đó là quan niệm không có ai hoàn hảo cả, tất cả, không trừ ai, ở bất cứ thứ hạng xã hội nào, đều có thể mắc sai lầm, có thể có những nhược điểm nào đó, và họ đều có thể trở thành đối tượng của cái cười.
Nhân vật của truyện cười thường được đặt trong tình huống sinh hoạt “đời thường” để bộc lộ hành vi, cách ứng xử gây cười: ăn, ngủ, đi đứng, nói năng... Bao gồm có hai loại: nhân vật trong truyện cười châm biếm và nhân vật trong truyện cười khôi hài.
Nhân vật trong truyện cười hài hước (khôi hài) là đối tượng của cái cười khôi hài; nhân vật trong truyện cười châm biếm đả kích là đối tượng của cái cười châm biếm, đả kích. Chỗ khác nhau của hai loại nhân vật này là ở tính chất của hành vi ứng xử: Hành vi ứng xử của nhân vật trong truyện cười hài hước không mang ý nghĩa xấu, không gây tâm lí, phản ứng phê phán; hành vi của nhân vật trong truyện cười châm biếm thường gây phản ứng tâm lí phê phán vì nó gắn với ý nghĩa xấu.
Tiếng cười bật lên trong truyện cười châm biếm khi phát hiện ra bản chất nhân vật, thói xấu, cái xấu ở nhân vật. Còn trong truyện cười khôi hài, tiếng cười chỉ bật lên vì chính hành vi của nhân vật (bao gồm cả hành vi nói năng, ứng xử).
Trong một số truyện cười, nhân vật là đối tượng gây cười có thể có cả nhân vật chính và nhân vật phụ. Nhân vật chính thường là nhân vật bị cười, là đối tượng của cái cười. Nhân vật này tuy không trực tiếp gây ra hành vi buồn cười, tuy đóng vai trò phụ trong suốt diễn biến của câu chuyện nhưng lại là đối tượng chính yếu của cái cười. Nhân vật phụ là nhân vật có hành vi buồn cười (chỉ là nhân vật gây cười), không phải là đối tượng của cái cười hay nhân vật bị cười. Nhân vật này thường đóng vai trò chính yếu trong suốt diễn biến câu chuyện, nhưng không phải là đối tượng thực sự của cái cười. Nhân vật này thuộc kiểu nhân vật chức năng, đóng vai trò đòn bẩy làm lộ ra cái đáng cười tiềm ẩn ở nhân vật chính (tức đối tượng bị cười) trong truyện.
2.3. Xung đột trong truyện cười
Xung đột trong truyện cười là xung đột giữa cái thật và cái giả; giữa sự thật và sự dối trá. Xung đột này thường được biểu hiện ngay trong hành vi của nhân vật. Cái giả, sự dối trá thường là hình thức bên ngoài, có vẻ hợp với qui luật tự nhiên, hợp lẽ thường của hành vi (buồn cười). Sự thật, cái thật là cái nội dung bên trong, trái với lô gíc tự nhiên, trái lẽ thường của hành vi ấy.
Trong truyện cười Cái giả và cái thật luôn cùng tồn tại ngay trong hành vi của nhân vật: cái giả là hình thức che đậy bên ngoài cái thật; cái thật là nội dung bên trong (nội dung này thường gắn với cái xấu - hiểu theo nghĩa rộng) ẩn dưới cái giả. Qua trung gian của cái cười, cái giả và cái thật được phân biệt và cùng bộc lộ.
2.4. Một số thủ pháp gây cười
Trong truyện cười dân gian, thủ pháp phóng đại và sử dụng yếu tố tục là hai thủ pháp nghệ thuật gây cười đặc trưng, tiêu biểu nhất. Nhờ sự các thủ pháp này nên truyện cười mới có yếu tố gây cười, đạt được mục đích gây cười, tạo nên tiếng cười.
Tác giả truyện cười sử dụng thủ pháp phóng đại nhằm “lố bịch hóa” cái đáng cười (trong nhóm truyện cười hài hước) cùng nhân vật bị cười (trong truyện cười châm biếm). Thủ pháp này có ý nghĩa vừa làm nổi rõ cái thật như là mặt trái của hành vi nhân vật (nhờ cường điệu bản chất) vừa làm lộ rõ cái giả như thật của hành vi ấy (nhờ phép tương phản) khiến cho mâu thuẫn trong hành vi buồn cười tác động mạnh mẽ đén nhận thức, tư tưởng của người nghe.
Trong truyện cười, phóng đại có sự tương đồng với lối nói cường điệu, nói khoác tạo lên một lối “đại ngôn” đặc sắc. Thủ pháp cường điệu, phóng đại này thường tập trung vào hành vi lời nói của nhân vật hoặc hành động việc làm, hành vi cử chỉ nào đó làm nổi bật cái đáng cười ở nhân vật trong cảnh huống cụ thể.
Trong truyện cười yếu tố tục được thể hiện gắn với lối nói nhã ngữ gợi sự liên tưởng đến yếu tố tiếu lâm. Nó không phải là đối tượng phản ánh mà chỉ là phương tiện gây cười (gây cười một cách dễ dãi). Vì thế cái cười trong những truyện sử dụng yếu tố tục này không dí dỏm hay sâu sắc.
2.5. Ngôn ngữ trong truyện cười
Lời văn kể chuyện trong truyện cười ngắn gọn, cô đúc và giản dị mang đậm màu sắc dân gian nên khá ổn định, chủ yếu là lời văn của người kể hay biên soạn lại. Do đặc điểm kết cấu giống một màn hài kịch nên ngôn ngữ đối thoại được sử dụng với tần số cao. Đối thoại trong truyện cười bao gồm cả đối thoại hai phía và độc thoại (ngôn ngữ diễn hóa hành động của nhân vật). Trong truyện cười dân gian, cách sử dụng ngôn ngữ khá linh hoạt trong xây dựng tình huống gây cười hay sử dụng các thủ pháp gây cười nên tạo thêm bất ngờ thú vị.
Với những đặc trưng thi pháp thể loại nói trên, mỗi truyện cười dân gian đều ẩn chứa trong nó biết bao điều thú vị và cả sự tài hoa của người đã sáng tạo nên các câu chuyện đó. Vận dụng những đặc trưng thi pháp truyện cười dân gian vào đọc - hiểu những văn bản truyện cười cụ thể không phải việc làm dễ dàng. Trong giới hạn một bài viết nhỏ chúng tôi không thể tiến hành ứng dụng định hướng này vào phân tích tất cả các tác phẩm văn học dân gian được tuyển chọn trong sách Ngữ văn lớp 10 tập 1 của Nhà Xuất bản Giáo dục nên chỉ ứng dụng định hướng này vào một thể loại (truyện cười) và một văn bản tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT có nhan đề là Tam đại con gà.
3. Vận dụng đặc trưng thi pháp truyện cười vào phân tích truyện Tam đại con gà
3.1. Giới thiệu truyện
Tam đại con gà là một trong những truyện cười dân gian đặc sắc trong kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam. Truyện Tam đại con gà thuộc loại truyện cười trào phúng hướng tới đối tượng gây cười là “thầy đồ dốt” luôn tìm mọi cách giấu dốt. Câu chuyện này chứa đựng trong nó đầy đủ những đặc trưng thi pháp cơ bản của truyện cười dân gian nói chung và đặc trưng thi pháp của tiểu loại truyện cười trào phúng nói riêng.
3.2. Bố cục
Toàn bộ cốt truyện được xây dựng theo mô hình kết cấu chung của truyện cười, gồm ba phần (có mở đầu, có diễn tiến và kết thúc); mang dáng dấp một màn hài kịch: có cả vai chính, vai phụ (trong truyện Tam đại con gà có ba nhân vật: ông chủ, học trò và thầy đồ; trong đó nhân vật thầy đồ là nhân vật chính còn học trò và ông chủ chỉ là nhân vật phụ trong mối quan hệ với thầy đồ song không thể thiếu (vì các nhân vật này xuất hiện trong truyện với tư cách nhân vật chức năng thực hiện vai trò đòn bẩy); có đối thoại và độc thoại; có xung đột và diễn hóa của xung đột (thể hiện trong các tình huống gây cười và hành vi của nhân vật chính bao gồm cả hành vi việc làm và hành vi lời nói).
3.3. Phân tích
a. Phần mở đầu
Ở phần mở đầu của truyện cười Tam đại con gà nhân vật thầy đồ được giới thiệu gắn liền với thói xấu“anh học trò đã học dốt lại hay khoe chữ, đi đâu cũng khoe khoang là mình nào là chữ tốt, nào là văn hay”. Cách giới thiệu ngắn gọn nhưng rõ ràng, đầy đủ này có tác dụng giới thiệu được nhân vật và tính cách của anh ta, đồng thời cũng nêu lên mâu thuẫn trái với tự nhiên ở dạng khái quát nhất: dốt nhưng không chịu thừa nhận là mình dốt, lại tự cho mình là giỏi, lên mặt văn hay chữ tốt. Tiếng cười tuy chưa bật ra ở đây vì mâu thuẫn này mới ở dạng tiềm năng chưa phát lộ.
Trong truyện cười dân gian, tiếng cười chỉ bật lên khi cái đáng cười bị phát hiện. Để đạt tới cái đích này, dân gian ngoài việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật gây cười còn xây dựng những tình huống gây cười đặc sắc, tạo nên một diễn tiến gây cười thú vị. Một trong cách xây dựng tình huống gây cười phổ biến là đặt nhân vật vào các tình huống đời thường khác nhau nhưng phù hợp để trong những tình huống gây cười đó, tính chất hành vi ứng xử buồn cười của nhân vật được bộc lộ.
b. Phần diễn tiến
Trong phần diễn tiến của câu chuyện Tam đại con gà, tác giả dẫn dắt người nghe truyện cười thâm nhập vào những tình huống gây cười mà ở đó cái đáng cười của nhân vật bị bóc trần, phơi bày.
Tình huống đầu tiên anh thầy đồ kia gặp phải là khi đang dạy chữ cho trẻ, gặp chữ “kê” trong cuốn sách Tam thiên tự (ba nghìn chữ), anh ta không biết là chữ gì. “Chữ “kê” trong chữ Hán có nghĩa là con gà có 18 nét, tuy hơi rắc rối nhưng không phải chữ khó. Thầy mù tịt, thế là dốt... định lượng được rồi! Đối với các ông đồ, dốt như thế đã là dốt thảm dốt hại” [ 2,Tr133)]. Đã là thầy đồ đi dạy chữ mà chữ trong cuốn sách vỡ lòng cũng không hiểu hết, không đọc nổi. Đó chính là bằng chứng về một cái dốt của anh thầy đồ này. Dốt mà dám đi dạy học, làm thầy thiên hạ. Tình huống này chứa đựng trong nó yếu tố gây cười, làm ta thấy buồn cười nhưng chưa cười chưa thành tiếng vì xung đột trong tình huống đó chưa bị đẩy lên đỉnh điểm.
Nhân vật thầy đồ trong truyện có thói xấu “dốt nhưng lại hay khoe chữ”. Đó thực sự là một tính cách xấu, một thói xấu đáng bị chế giễu, châm biếm và cũng là một thói xấu khá phổ biến ở đối tượng này. Nhưng cái đáng trách và đáng chễ giễu nhiều hơn ở nhân vật này lại là “tính sĩ diện, cố tìm cách giấu dốt”. Việc lựa chọn kiểu nhân vật này thể hiện quan niệm nghệ thuật về đối tượng “thầy đồ” của tác giả dân gian: Không phải cứ là thầy đồ thì không có thói xấu hay không mắc sai lầm.
Mặc dù nhân dân ta vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo “nhất tự vi sư bán tự vi sư” nhưng nếu có những thầy đồ như nhân vật trong truyện thì dân gian vẫn đưa họ vào trong sân khấu hài kịch để châm biếm, chế giễu và đả kích một cách không thương xót.
Để đạt được mục đích của mình, tác giả của câu chuyện này đã lựa chọn một hoàn cảnh thích hợp (môi trường sinh hoạt đời thường của lối giáo dục vẫn gặp ở xã hội nông thôn cổ truyền - dạy trẻ học tại nhà) để nhân vật tự bộc lộ thói xấu và tính cách xấu của mình qua chuỗi hành vi gây cười của anh ta. Nhờ thế, diễn tiến của câu chuyện được kéo dài thêm với tình huống gây cười đặc sắc khác.
Trong tình huống gây cười thứ 2, anh thầy đồ không phải đối diện với học trò mà là ông chủ nhà - vốn là một người có học lại sắc sảo. Không phải ngẫu nhiên nhân vật chủ nhà xuất hiện ở tình huống này. Trong truyện cười trào phúng có truyện chỉ có một nhân vật chính song nhiều truyện có các nhân vật phụ, hoặc nhân vật tung hứng. Các nhân vật này thường đóng vai trò nhân vật chức năng, đòn bẩy khiến nhân vật chính tự phơi bày thói xấu, cái đáng cười của mình. Nhân vật chủ nhà ở đây cũng là nhân vật phụ đóng vai trò là nhân vật chức năng như vậy. Nhân vật này chỉ với một câu thắc mắc:“Ấy chết! Chữ “kê” là con gà, sao thầy bảo cháu “ dủ dỉ là con dù dì”? đã khiến thầy đồ lúng túng tự bóc mẽ bản thân:“Thầy tái mặt, nghĩ thầm: “Mình đã dốt, mà thổ công nhà nó cũng dốt nốt!”.
Chúng ta đã biết: Xung đột trong truyện cổ tích thường là xung đột giữa cái thiện với cái ác, xung đột này thường biểu hiện ở cuộc đấu tranh của nhân vật chính chống lại các lực lượng thù địch, khắc phục mọi trở ngại, tức là biểu hiện qua chuỗi hành động của nhân vật. Xung đột trong truyện ngụ ngôn chủ yếu là xung đột giữa cái đúng và cái sai, giữa chân lí và ngụy lí; xung đột này biểu hiện ở lí lẽ, triết lí ứng xử của nhân vật khi hành động, tức là biểu hiện ở phía sau hành động của nhân vật. Trong truyện cười, xung đột có nội dung và hình thức biểu hiện khác. Đó là xung đột giữa cái thật và cái giả; giữa sự thật và điều dối trá; xung đột này bộc lộ ngay trong hành vi của nhân vật.
Trong truyện Tam đại con gà, nhân vật thầy đồ đang rơi vào thế bí, chưa biết dạy thế nào lại bị học trò giục, anh ta cuống dạy đành dạy liều. Hành động dạy liều chữ “kê” thành “dủ dỉ là con dù dì” chỉ là sự nói liều, buột miệng khi rơi vào thế bí, chẳng có ý nghĩa gì. Đó là cái giả che đậy cái thật là sự dốt nát của anh ta trước học trò và tính cách sĩ diện của anh ta. Tiếng cười bật ra vì sự liều lĩnh dốt nát lại sĩ diện giấu dốt của anh thầy đồ. Cái sự dốt nát, lại sĩ diện giấu dốt của anh ta thể hiện ở hai điểm: không dám công khai thừa nhận mình không biết đọc chữ “kê” trước học trò và sợ người khác biết nên bảo học trò đọc khe khẽ. Hóa ra thầy vẫn còn biết xấu hổ vì sợ người khác biết mình dốt. Thú vị hơn nữa là để chắc chắn về sự đúng sai trong cách dạy liều của mình, thầy đồ khấn Thổ công xin đài âm dương và được vị thần này chứng cho là đúng “cả ba đài âm dương đều được cả”. Hành động “rón rén” khấn Thổ công xin âm dương của thầy đồ cho thấy thầy không chỉ dốt mà còn mê tín nữa. Vậy mà sau khi xin được quẻ, thầy đắc chí vì tin tưởng mình đúng, dẫn đến sự việc yêu cầu học trò đọc to lên lời thầy vừa giải thích vô nghĩa kia. Tiếng cười một lần nữa lại bật ra thú vị.
Ta cười vì sự mê tín của thầy đồ, và cả vì sự dốt nát không chỉ của thầy đồ mà cả của ông Thổ công nhà chủ nữa. Tuy nhiên tiếng cười ở tình huống này chưa thật giòn giã bởi diễn tiến câu chuyện chưa đến đỉnh điểm. Chính niềm vui của anh thầy đồ, tiếng đọc bài rõ to theo lệnh của thầy đồ đã dẫn câu chuyện đến tình huống gây cười thứ 2, cũng là đỉnh điểm của xung đột trong câu chuyện.
Trong tình huống gây cười này, anh thầy đồ kia đành phải thừa nhận sự dốt nát của mình và của ông Thổ công nhà chủ nữa. Suy nghĩ của thầy đồ là chân thật và buồn cười, khiến ta không thể không cười vì tình thế oái oăm (thầy đồ dốt gặp ông thần dốt). Tuy nhiên nhân vật thầy đồ chỉ tự thừa nhận mình dốt trong suy nghĩ chứ ngoài mặt anh ta vẫn tìm cách bao biện, che dấu sự dốt của mình. Anh ta giải thích bằng cách tỏ vẻ uyên bác của mình:
“- Thì chữ kê là con gà, ai chẳng biết! Nhưng đây là tôi dạy đến tận gốc, cho cháu nó biết đến tam đại (ba đời) con gà kia!”.
Khi thấy chủ nhà tỏ vẻ không hiểu, anh ta bèn cắt nghĩa:
“- Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà!”.
Cách cắt nghĩa về “tam đại con gà” của anh thầy đồ thật bất ngờ. Nó mang đậm màu sắc khẩu ngữ trong dân gian chứ không như một số truyện cùng đề tài về thầy đồ dốt lại dùng chữ Hán và lối cắt nghĩa chữ Hán (như truyện Bất là cây bất, Vẫn chỉ hai quan) khiến người nghe nếu không có chút vốn kiến thức về chữ Hán khó có thể tiếp nhận ngay được.
Cái lí lẽ dạy đến tận gốc của anh đồ, mẹo mực gỡ thế bí của anh ta cũng theo lối dân dã, cả cái logic anh ta sử dụng để lấp liếm cái dốt của mình cũng vậy, thật thú vị “Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà”. Một câu nói vần vè quen thuộc như câu hát đồng dao của con trẻ ở nông thôn xưa“Chim ri là dì chim sáo, chim sáo là cậu sáo đen, sáo đen là anh tu hú, tu hú là chú bồ các, bồ các là bác chim ri” nhưng nó hoàn toàn vô nghĩa, vô lí vì không có mối liên hệ gì với chữ “kê” trong sách Tam thiên tự mà anh ta đang dạy cho trẻ. Nó trở thành cái giả trá để anh thầy đồ dốt nhưng láu cá kia lấp liếm sự thật dốt nát của mình.
Một trong những nét đặc sắc của truyện cười Tam đại con gà nằm ở phương diện ngôn ngữ kể chuyện. Dân gian đã sử dụng lối ngôn ngữ đối thoại và độc thoại quen thuộc trong thi pháp ngôn ngữ truyện cười: Có sự đan xen cả độc thoại và đối thoại - đối thoại giữa ông chủ và thầy đồ; độc thoại của Thầy đồ; trong tình huống gây cười thứ hai, ngôn ngữ đối thoại được đưa vào sử dụng đúng lúc và khai thác triệt để tính chất hài hước trong ngôn ngữ khẩu ngữ của dân gian. Nó góp phần khách quan hóa việc phơi bày chân tướng sự việc và sự thật về một anh thầy đồ dốt, lại tìm mọi cách để giấu dốt của tác giả dân gian. Độc đáo hơn nữa là dân gian còn sử dụng lối diễn hóa, lối đặc tả hành vi của nhân vật làm cho tính cách nhân vật trở nên sống động. Nhờ lối kể chuyện này mà ta thấy cái dốt bị chê thì ít, nhưng cái sự giấu dốt thì bị cười nhiều.
+ Thầy dốt, nhưng lại giấu dốt, thế là thầy nói liều
+ Nhưng thầy láu, sợ nhỡ sai, sợngười ta biết thì xấu hổ, thầy phải bảo học trò đọc khẽ
+ rồi thầy rón rén đến khấn Thổ công
+ yên tâm, thầy thở phào nhẹ nhóm và quát học trò đọc to lên
Nhờ có lối kể chuyện vừa linh hoạt vừa độc đáo ấy mà câu chuyện có một cái kết thật bất ngờ.
c. Phần kết truyện
Phần kết của câu chuyện nằm ngay trong lời cắt nghĩa tận gốc về “tam đại con gà” của anh thầy đồ nọ. Cách cắt nghĩa ấy khiến người ta ngỡ anh ta uyên bác những thực chất lại không phải thế, nó bóc trần sự giả trá của anh ta. Đến đây mâu thuẫn được hóa giải, tiếng cười lúc này vỡ òa ra. Ta cười anh thầy đồ dốt nát nhưng lại khéo lấp liếm sự dốt nát của mình bằng lí sự cùn. Mâu thuẫn được giải quyết rất bất ngờ và tự nhiên, phù hợp với tính cách của nhân vật. Và câu chuyện kết thúc trong tiếng cười giòn giã ấy.
Tiếng cười trong truyện cười dân gian chỉ vỡ òa khi những nút thắt được mở, các mâu thuẫn được giải quyết, xung đột được hóa giải. Tuy nhiên tiếng cười trong truyện cười cũng có nhiều cung bậc khác nhau. Trong truyện cười hài hước, tiếng cười cất lên chỉ là tiếng cười vui, nó có ý nghĩa mua vui giải trí, giảm áp lực cuộc sống cho con người.Tam đại con gà là một truyện cười trào phúng vì thế tiếng cười cũng mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó hướng đến đối tượng đáng cười là các thầy đồ dốt lại hay khoe chữ, đã dốt lại còn sĩ diện, tìm mọi cách giấu dốt như nhân vật chính trong câu chuyện này. Nói theo tác giả Lê Trường Phát thì truyện cười Tam đại con gà đã giúp ta “nhận ra một điều sâu sắc hơn: Từ sự dốt nát thảm hại, chúng ta còn chứng kiến sự thảm hại của dốt nát” [2,Tr135].
Tiếng cười trong truyện cười trào phúng dân gian không giản đơn chỉ là tiếng cười vui mua giải trí cho con người mà còn là tiếng cười mang ý nghĩa xã hội và giáo dục sâu sắc. Nó châm biếm, chế giễu những thói hư tật xấu ở con người bình dân, nó phê phán, đả kích những kẻ thuộc tầng lớp trên với những thói hư tật xấu mang bản chất giai cấp trong xã hội. Mỗi câu chuyện như một lời nhắn gửi tới mọi người rằng: Hãy tránh xa nhưng thói xấu ấy, hãy thay đổi những thói xấu của mình nếu có để hoàn thiện bản thân và xây dựng một cộng đồng có nếp sống văn minh, văn hóa.
III. KẾT LUẬN
Đặc sắc của sáng tác nghệ thuật truyền miệng dân gian thể hiện không chỉ ở nội dung văn bản tác phẩm “nói gì” mà còn ở bản thân cách phản ánh thực tại “nói như thế nào”. Ta không thể hiểu thấu đáo tác phẩm văn học truyền miệng nếu tách rời nội dung phản ánh với cách thức phản ánh nếu không khảo cứu nó từ góc độ đặc trưng thi pháp các thể loại của nó.
Trong nhà trường phổ thông, dạy tác phẩm không chỉ là truyền đạt những gì người giáo viên cảm nhận được về tác phẩm mà còn hướng dẫn đường vào tác phẩm cho học sinh. Một trong cách thức hữu dụng hiện nay vẫn là cách thức “giải mã” văn bản tác phẩm văn học dân gian gắn với đặc trưng thi pháp thể loại của nó. Nên chăng mỗi người dạy và học văn nên vận dụng đặc trưng thi pháp văn học dân gian vào phân tích tác phẩm hoặc dạy cho người học cách đọc - hiểu văn bản tác phẩm văn học dân gian, xem đó là một phương pháp “giải mã” tác phẩm văn học truyền miệng một cách khoa học.
........................................................................................................
1. Chu Xuân Diên (2000) , Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Lê Trường Phát ( 2000), Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.