06302025Thứ 2
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

CHÀO MỪNG 40 NĂM QUỐC KHÁNH NƯỚC CHDCND LÀO (02/12/1975 – 02/12/2015)

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

     Lào và Việt Nam là hai quốc gia láng giềng gần gũi, cùng chung sống lâu đời trên bán đảo Đông Dương. Từ cuối thế kỷ XIX, hai dân tộc liên tiếp bị các thế lực Đế quốc như Pháp, Nhật, Mỹ với tiềm lực kinh tế, quân sự hùng hậu thay nhau xâm lược và thống trị.

     Do chính sách áp bức bóc lột nặng nề của thực dân- phát xít nên ý thức đấu tranh của nhân dân Lào ngày càng phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Lào, trực thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương, trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều tổ chức yêu nước Lào được thành lập: Lào Itxala (Mặt trận Lào tự do); Lào Pên Lào (nước Lào của người Lào)…

     Lợi dụng thời cơ phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, từ giữa tháng 8 đến nửa đầu tháng 10 năm 1945, nhân dân Lào khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở nhiều nơi và lập ra Chính phủ Lào Itxala (Lào tự do).

     Sau cách mạng, cách mạng Lào đứng trước nhiều khó khăn. Trong đó, khó khăn lớn nhất là tháng 3 năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào. Vì vậy, nhân dân Lào phải tiến hành cuộc kháng chiến lần hai chống thực dân Pháp

     Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, phong trào kháng chiến của nhân dân Lào chống thực dân Pháp phát triển mạnh, lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành. Trong giai đoạn này, các đơn vị vũ trang tuyên truyền hỗn hợp Lào – Việt được thành lập với tên gọi là đoàn quân “Tây Tiến”. Trên cơ sở của lực lượng vũ trang ban đầu đó, đến ngày 20 tháng 1năm 1949, quân giải phóng nhân Lào chính thức thành lập do đồng chí Cayxỏn Phômvihản làm Tổng chỉ huy.

Nghĩa trang liệt sĩ Liên quân Việt – Lào tại Xiêng Khoảng

     Nhằm thống nhất các lực lượng cho cuộc kháng chiến, ngày 13 tháng 8 năm 1950, tại Hủa Phăn đã diễn ra Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc do Hoàng thân Xuphanuvông chủ trì. Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc đã quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất đất nước với tên gọi là Mặt trận Lào Itxala (đến năm 1956 đổi tên thành Mặt trận yêu nước Lào) và Chính phủ kháng chiến Lào do Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã đưa cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào sang một bước phát triển mới.

     Trong giai đoạn 1953-1954, Liên quân Lào – Việt đã mở nhiều chiến dịch quan trọng và giành được những thắng lợi to lớn: chiến dịch Trung Lào; Thượng Lào; Hạ Lào.

     Những thắng lợi trên đã tạo ra sự phối hợp chặt chẽ với chiến trường Việt Nam nhất là với chiến dịch Điện Biên Phủ. Nó cũng góp phần vào chiến thắng chung của nhân dân Đông Dương trong việc làm phá sản kế hoạch Nava.

     Từ những thất bại trên, Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ (1954) về Đông Dương, công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân các nước Đông Dương. Theo đó, Lào có một vùng giải phóng gồm hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngsalỳ để tập kết lực lượng.

     Sau Hiệp định Giơnevơ, Mỹ tăng cường can thiệp, hòng biến Lào thành thuộc địa kiểu mới và bàn đạp quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á.

     Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Lào (từ năm 1972 đổi tên thành Đảng Nhân dân Cách mạng Lào), cuộc kháng chiến chống Mỹ liên tiếp thu được những thắng lợi quan trọng. Quân dân Lào có sự phối hợp của quân tình nguyện Việt Nam đã đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Vùng giải phóng của cách mạng Lào ngày càng mở rộng chiếm tới 2/3 đất đai và 1/3 dân số cả nước, được phát triển toàn diện theo quy mô một quốc gia. Tiếp đó quân dân Lào đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt tăng cường” của học thuyết Ních xơn và đến đầu những năm 70 vùng giải phóng được mở rộng tới 4/5 lãnh thổ cả nước.

     Với hàng loạt các thất bại, đặc biệt là về quân sự, Mỹ và tay sai phải kí Hiệp định Viêng Chăn (21/2/1973): lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào.

     Trên cơ sở kết quả của Hiệp định Viêng Chăn, ngày 5/4/1974, Chính phủ Liên hiệp lâm thời và Hội đồng Nhân dân Tối cao Lào ra đời. Hoàng thân Xuphanuvông được cử làm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Tối cao Lào.

     Những thắng lợi liên tiếp của cách mạng Campuchia và Việt Nam vào những ngày tháng 4/1975, đã cổ vũ và tạo điều kiện thuận lợi cho Cách mạng Lào. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, từ tháng 5 đến tháng 12/1975, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền. Ngày 2 tháng 12 năm 1975, tại Đại hội đại biểu Toàn quốc diễn ra ở Viêng Chăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào chính thức thành lập. Hoàng thân Xuphanuvông được bầu làm Chủ tịch nước và đồng chí Cayxỏn Phômvihản giữ chức Thủ tướng Chính phủ. Cách mạng Lào bước sang thời kì phát triển mới, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân rồi tiến lên theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.

     Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Lào năm 1975 là một tấm gương sáng chói, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh để tự giải phóng, góp phần cống hiến to lớn vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.

     Trong suốt những năm tháng kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, nhân dân Lào đã luôn kề vai sát cánh với nhân dân Việt Nam, chia sẻ khó khăn, chung vui thắng lợi, cùng đứng trong một chiến hào chống kẻ thù chung để đi đến thắng lợi hoàn toàn.

     Bước sang giai đoạn phát mới, nhân dân các bộ tộc Lào tiếp tục đoàn kết gắn bó với nhân dân Việt Nam, ra sức tăng cường quan hệ hữu nghị lâu đời và sự hợp tác toàn diện với nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thị xã Sâm Nưa (Hủa Phăn), tháng 4/2015

     Có thể nói, qua những ngày nắng đẹp, trời trong, cũng như những cơn gió mưa thử thách, cây “Hữu nghị” giữa hai dân tộc ngày cáng đơm hoa, kết trái và mãi mãi tươi xanh.Tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Xuphanuvông; Thủ tướng Cayxỏn Phômvihản cùng các thế hệ hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dầy công xây dựng và vun đắp, được tôi luyện qua thử thác ác liệt trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cũng như trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay. Tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Lào - Việt, do đó đã trở thành một tài sản vô giá của hai dân tộc mà các thế hôm nay và mai sâu phải mãi mãi biết giữ gìn, trân trọng và phát triển.