Trong cuộc đời chỉ huy binh nghiệp lẫy lừng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã truyền hàng ngàn mệnh lệnh tới cán bộ, chiến sĩ. Nhưng trong đó, có hai mệnh lệnh đặc biệt, do Đại tướng trực tiếp viết tay, được bộ phận cơ yếu mã hóa và gửi thẳng tới chiến trường.
Mệnh lệnh thứ nhất ra đời tại Sở Chỉ huy Mường Phăng, ngay trên chiến trường Điện Biên Phủ. Từ ngày 1 tháng 5 năm 1954, quân đội ta mở đợt công kích cuối cùng vào tập đoàn cứ điểm. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo, đợt tiến công phát triển thuận lợi. Cứ điểm đồi A1 dự định đánh vào đêm đầu, nhưng phải chờ công binh đào xong con đường hầm dài hơn 40 mét từ chân đồi đến dưới hầm ngầm của địch để đặt 960 kg thuốc nổ nên phải đến đêm ngày 6 tháng 5 mới tổ chức tiến công được. Với tính chất quan trọng của trận đánh cuối cùng, tối ngày 6 tháng 5 năm 1954, Đại tướng trực tiếp viết bản mệnh lệnh lịch sử:
(Ảnh sưu tầm)
Mệnh lệnh
1. Thời gian quy định đúng 8 giờ 30, không được chậm.
2. Đến 8 giờ 30 thì:
a) Đồi A1 bộc phá.
b) Pháo và H6(1) bắn tập kích lần thứ nhất.
c) Bộ binh các hướng đều xung phong.
d) Hang Cang(2) lập tức chế áp pháo địch.
3. Các nơi phải lấy giờ cho đúng.
8 giờ 15
Ngọc(3)
(Chú thích: (1) H6 là mật danh của hỏa tiễn 6 nòng do Trung Quốc vừa viện trợ cho ta; (2) Hang Cang tức Hồng Cúm; (3) Ngọc là bí danh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Điện Biên Phủ)
Đúng 8 giờ 30 phút, các đơn vị nổ súng đánh chiếm các vị trí còn lại trên dãy cao điểm phía Đông và phía bắc cầu Mường Thanh.
17 giờ 30 phút ngày 7 tháng 5, Đại đoàn 312 báo cáo về: toàn bộ địch trong Phân khu Trung tâm đã đầu hàng, đã bắt sống được tướng Đờ Cát. Cả khu vực Sở Chỉ huy Mường Phăng vốn rất nghiêm mật, bỗng sôi động hẳn lên, tiếng reo hò vang dội. Nhưng riêng Đại tướng vẫn chưa lộ vẻ vui mừng. Chỉ huy trưởng gọi điện hỏi đồng chí Lê Trọng Tấn:
- Có đúng là đã bắt được Đờ Cát không?
- Báo cáo Anh, anh em báo cáo lên là đã bắt được.
- Căn cứ vào đâu mà biết nó đúng là Đờ Cát?
Đồng chí Lê Trọng Tấn im lặng.
Đại tướng chỉ thị:
- Phải bắt cho được Đờ Cát. Không được để địch đánh tráo tên chỉ huy. Đề phòng nó đưa tên khác ra thay, còn nó tháo lon trốn chạy! Phải đối chiếu nhận dạng với căn cước, kiểm tra cấp hiệu, phù hiệu. Các đồng chí chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc này. Các đồng chí có ảnh của Đờ Cát chưa?
Đơn vị trả lời không có. Đại tướng cử một cán bộ của mặt trận dùng xe jeep xuống đơn vị mang theo tấm ảnh của Đờ Cát.
Chi tiết này thêm một lần nữa khẳng định tinh thần trách nhiệm tuyệt đối, một tác phong sâu sát tới từng tình huống cụ thể của Đại tướng Tổng Tư lệnh.
Lát sau, Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn gọi báo cáo, đúng là đã bắt được Đờ Cát cùng toàn bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Đờ Cát vẫn mang cấp hiệu, ta đã kiểm tra ký giấy tờ và chữ ký của y.
Chỉ huy trưởng hỏi lại:
- Đồng chí đã thực mắt nhìn thấy Đờ Cát chưa?
Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn vui vẻ đáp:
- Báo cáo Anh, Đờ Cát cùng với cả bộ chỉ huy Pháp ở Điện Biên Phủ đang đứng trước mặt tôi. Hắn còn cả “can” và mũ đỏ.
Tổng tư lệnh viết ngay điện báo cáo với Trung ương Đảng và Chính phủ tin quân ta ở Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Sau 56 ngày đêm chiến đấu ác liệt, chiến dịch lịch sử đã kết thúc thắng lợi, đưa lịch lịch sử Việt Nam bước sang một trang mới, đưa “Việt Nam - Hồ Chí Minh - Võ Nguyên Giáp - Điện Biên Phủ” trở thành tên gọi quen thuộc đối với bạn bè quốc tế, trở thành niềm tin và biểu tượng cho nhân dân các dân tộc bị áp bức đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc.
Bản mệnh lệnh thứ hai ra đời sau đó 21 năm, cũng trong một thời điểm lịch sử đặc biệt - thời điểm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đang tiến những bước thần tốc, với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm” trên hành trình tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau thắng lợi liên tiếp của hai đòn tiến công chiến lược giải phóng Tây Nguyên và đòn tiến công chiến lược giải phóng Huế - Đà Nẵng cùng các tỉnh miền Trung, quân địch đã bị mất 1/2 lãnh thổ và lực lượng, buộc phải co cụm bảo vệ Quân khu 3 trong đó có Thành phố Sài Gòn. Âm mưu mới của chính quyền Sài Gòn là thiết lập hai tuyến phòng ngự từ xa và xung quanh Sài Gòn nhằm chặn đứng bước tiến công của quân ta, cầm cự cho tới mùa mưa. Trong tính toán của chúng, mùa mưa là cứu cánh, là cơ hội sống còn. Vì vậy, thời gian lúc này là nhân tố tối quan trọng. Chạy đua cùng thời gian là nhiệm vụ của cả ta và địch.
Trong bối cảnh đó, thể hiện quyết tâm của Bộ Chính trị giải phóng miền Nam trước mùa mưa, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, ngày 7 tháng 4 năm 1974, tại Tổng hành dinh ở Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp viết bản mệnh lệnh lịch sử:
(Ảnh tư liệu)
Mệnh lệnh
1) Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng.
2) Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ.
Văn(4)
7/4/75
(Chú thích: (4) Văn là tên thường gọi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
Thực hiện mệnh lệnh của Đại tướng, toàn quân một hướng thẳng tiến về Sài Gòn. Vừa kết hợp hành quân, vừa chiến đấu tiêu diệt địch trên đường tiến quân, trong vòng chưa đầy nửa tháng, lực lượng các quân đoàn, binh khí, kỹ thuật của ta đã tập kết xung quanh Sài Gòn, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến dịch tiến công lớn nhất, giải phóng miền Nam.
Đúng 17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh bắt đầu. 10 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 66 bộ binh, cùng với xe tăng của Lữ đoàn 203 thuộc Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến công thọc sâu, đập tan toàn bộ lực lượng phòng ngự của địch, vượt qua sông Sài Gòn. 10 giờ 45 phút cùng ngày, quân ta chiếm Dinh Độc Lập giữa lúc chính quyền Sài Gòn đang họp các Tổng trưởng để ra mắt “tân nội các”. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh phải chấp nhận đầu hàng không điều kiện. Đúng 11 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng.
Chiến tranh giải phóng đã lùi xa gần 40 năm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng về bên Bác Hồ được hơn 1 năm, nhưng mỗi khi ôn lại nội dung hai bản mệnh lệnh lịch sử viết tay của Đại tướng, mỗi người Việt Nam càng thấy tự hào hơn về vị Đại tướng Tổng Tư lệnh với tầm tư duy chiến lược sắc sảo, tác phong sâu sát và trên hết là tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và binh sĩ. Dù ở ngoài mặt trận hay ở hậu phương, sự chỉ đạo sâu sát của Đại tướng vẫn luôn là điểm tựa vững chắc cho thắng lợi cuối cùng của mỗi chiến dịch. Chính tác phong ấy đã đưa Đại tướng trở thành “Tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy” như chính lời Thượng tướng Trần Văn Trà - nguyên Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã khẳng định.