06302025Thứ 2
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

Phác họa bức tranh văn hóa Việt Nam qua nhóm thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Tóm tắt

            Thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ có chức năng tương đương với từ. Trong hoạt động hành chức của mình, thành ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong lời ăn tiếng nói hàng ngày cũng như trong văn chương nghệ thuật.

            Khái niệm văn hóa có nội hàm rất rộng lớn, nó là toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động và tồn tại cùng lịch sử. Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, vì thế, hiển nhiên ngôn ngữ cũng là một sản phẩm của văn hóa. Thông qua việc tìm hiểu nhóm thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người, chúng tôi nhận thấy những nét văn hóa của người Việt như: nét văn hóa trong đời sống nông nghiệp, nét văn hóa trong giao tiếp và nét văn hóa trong tính cách con người Việt Nam.

1. Đặt vấn đề   

            Ngôn ngữ phản ánh hiện thực khách quan thông qua lăng kính chủ quan của con người. Vì thế, ngôn ngữ cũng được xem như chiếc chìa khóa vàng giúp cho con người mở cánh cửa để khám phá tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Trong phạm trù ngôn ngữ, có một bộ phận rất quan trọng là thành ngữ. “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thức - cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ [2; 27]. Thành ngữ tiếng Việt không chỉ có số lượng lớn mà còn phong phú, đa dạng về nội dung. Việc tìm hiểu nhóm thành ngữ này dựa trên quan điểm của lí thuyết về ba bình diện ngôn ngữ học là ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng đã gợi mở cho chúng tôi hướng tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. 

            “Văn hóa (culture) là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [4; 8].Trên dòng chảy của lịch sử, tiếng Việt đã ra đời. Đó là thành quả của một quá trình sáng tạo miệt mài, bền bỉ trong lao động và tiếp giao văn hóa của ông cha ta. Do đó, hiển nhiên tiếng Việt cũng chính là một sản phẩm văn hóa vô giá của toàn dân tộc. Ngôn ngữ và văn hóa không những có mối quan hệ mật thiết với nhau mà chúng còn luôn bảo lưu trong nhau những tinh hoa trên các chặng đường phát triển. Sở dĩ có điều này là vì ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp cơ bản nhất của xã hội loài người. Mà con người trong các hoạt động xây dựng và cải tạo xã hội thì không thể thiếu được ngôn ngữ. Văn hóa lại được nảy sinh từ chính những hoạt động đó của con người. Do vậy, cùng với lao động, văn hóa và ngôn ngữ được hình thành và song hành tồn tại. Nhiều giá trị quan trọng của văn hóa, nhất là những giá trị như phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo, văn học,... được bảo tồn nhờ ngôn ngữ. Ngược lại, trong vốn ngôn ngữ của một dân tộc cũng luôn “in dấu” và “hiện hữu” những giá trị văn hóa khác nhau. Nhóm thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) mà chúng tôi tìm hiểu có thể được xem như một ví dụ điển hình.   

2. Nội dung

2.1. Nét văn hóa trong đời sống nông nghiệp đặc thù 

            Văn hóa Việt Nam có nguồn gốc bản địa là chủ yếu. Đó là những giá trị văn hóa được nảy sinh từ nền văn minh châu thổ sông Hồng. Nền văn minh này nằm trong một khu vực rộng lớn hơn là nền văn minh của những cư dân trồng lúa nước ở khu vực Đông Nam Á. Nhà nghiên cứu G. Cosde cho rằng: “Về phương diện vật chất: làm ruộng cấy lúa, nuôi trâu bò, dùng đồ kim khí thô sơ, giỏi bơi thuyền” [5; 69]. Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn sách “Cơ sở văn hóa Việt Nam” đã bổ sung ý kiến trên bằng một nhận xét đầy xác đáng: “Việc trồng lúa và các loại cây như khoai, bầu, bí, trầu, cau; việc thuần dưỡng một số gia súc như trâu, lợn, gà; việc làm nhà ở; việc dùng cây thuốc chữa bệnh” [5; 85].Tất cả những điều này đều phản ánh nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam là Văn hóa nông nghiệp. Mọi mặt của đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người đều mang dấu ấn nông nghiệp rất rõ rệt.

            Trước kia, sản xuất nông nghiệp ở nước ta là nền sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, manh mún, công cụ lao động thô sơ, phương thức canh tác lạc hậu. Trong công việc làm đất, cấy trồng, thu hoạch, người Việt dùng sức người và sức kéo của gia súc (trâu, bò, ngựa) là chủ yếu. Cho nên, họ thường phải lao động vất vả. Các thành ngữ như “chân lấm tay bùn, đầu đội vai mang, cổ cày vai bừa, cháy mặt lấm lưng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, đầu tắt mặt tối, đầu tro mặt muội, ...” đã phản ánh một cách chân thực nỗi nhọc nhằn của người nông dân khi làm ra hạt thóc, củ khoai. Thế nhưng, dường như quanh năm suốt tháng, họ vẫn phải sống chung với đói nghèo. Ước mơ về sự no đủ trong cái ăn, cái mặc của người nông dân luôn luôn là một nỗi niềm đau đáu. Các thành ngữ như “nghèo lõ đít, vắt mũi chẳng đủ đút miệng, giựt gấu vá vai,...” đã giúp cho chúng ta thấy rõ điều này.

            Khi miêu tả ngoại hình con người, thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN đã xuất hiện nhiều hình ảnh quen thuộc và gần gũi với sản xuất nông nghiệp như “mặt ngây như cán thuổng, mặt lưỡi cày, răng to như bàn cuốc, lưng dài như chó liếm cối, mặt méo như bị, dùi đục cẳng tay, mắt sắc như dao cau,...”. Các thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN trong sự liên tưởng, so sánh với các hình ảnh chỉ đồ vật, công cụ lao động thường thấy của đời sống nông nghiệp đã được các nhà văn vận dụng trong các sáng tác văn chương. Ví dụ: “Bởi vì chị vợ ở nhà còn trẻ, mới hai con, cái mắt sắc như dao cau lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên lại sinh ra vắng chồng, của ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà nhịn được.” (Chí Phèo, Nam Cao).

             Nhiều loại vật nuôi trong gia đình và các loài động vật gần gũi với đời sống nông nghiệp cũng đi vào các thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN. Chẳng hạn “lúng túng như gà mắc tóc, mắt lợn luộc, nhờn chó chó liếm mặt, đầu trâu mặt ngựa, đầu bò đầu bướu, mặt chuột kẹp, dạ cá lòng chim, thắt đáy lưng ong, mặt đỏ như mặt gà chọi, mặt xanh như đít nhái, mặt rỗ như tổ ong bầu, mắt bồ câu, mắt cá chày, cổ ngẳng như cổ cò, lông mày sâu róm, giương mắt ếch, mắt ốc nhồi môi chuối mắn, mồm cá ngão, da mồi tóc bạc,....”

            Các loại thực vật quen thuộc của miền khí hậu nhiệt đới gió mùa gần gũi đối với đời sống và sinh hoạt của những cư dân trồng lúa nước cũng được nhắc đến như “răng chuối tiêu lưỡi núc nác, mắt ốc nhồi môi chuối mắn, tóc cứng như rễ tre, mắt lá răm, mũi dọc dừa, mặt trái xoan, mắt cay như xát ớt, có gan ăn muống có gan lội hồ, đầu óc bã đậu, vú thõng dưa gang, tóc đuôi gà mày lá liễu, há miệng chờ sung, chân như ống sậy, lòng vả cũng như lòng sung, ....”.  

            Một điều đặc biệt là cây lúa đã trở thành một hình ảnh gần gũi nhất, quen thuộc nhất và cũng quan trọng nhất với người Việt chúng ta. Trong thành ngữ nói chung và thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN nói riêng thì hình ảnh cây lúa có tần số xuất hiện nhiều và có tính phổ quát rộng nhất. Người Việt chúng ta đã có cách tri nhận rất sâu sắc và tỉ mỉ về cây lúa thông qua các từ thuộc trường nghĩa chỉ lúa trong thành ngữ như: “mỏng như lá lúa, câm như thóc, chuyện nở như gạo rang, dở hơi như cám hấp, chữ như trấu trát, lằng nhằng như cưa rơm, chết như ngả rạ, cơm tẻ là mẹ ruột, ngán như cơm nếp nát, méo miệng đòi ăn xôi vò, tháo dạ đổ vạ cho chè, má bánh đúc, vú bánh giầy,...”.     

            Cơm gạo là thức ăn chính nuôi sống con người. Cho nên, người Việt Nam đã coi hạt gạo trắng như hạt ngọc quý mà trời ban cho vậy. Tìm hiểu ý nghĩa của thành ngữ “cơm tẻ là mẹ ruột” giúp chúng ta thấy được thái độ trân trọng của người Việt Nam đối với hạt gạo, bát cơm. Họ đã chọn ra một hình ảnh thân thương và cao cả là mẹ hiền trong mối quan hệ với con để so sánh. Qua đó, làm nổi bật nên vai trò quan trọng của cơm tẻ đối với sự sống của con người. Phép so sánh đó quả là thần tình và sâu sắc. Với thành ngữ “cơm nhà má vợ” cũng vậy, ngoài ý nghĩa chỉ lối sống thu vén, chí thú với vợ con thì hai hình ảnh “cơm nhà” và “má vợ” giúp cho chúng ta thấy được ý nghĩa về những thứ cho dù đã quá đỗi quen thuộc mà lại không thể thiếu được, hoặc có thiếu thì dù chỉ một ngày cũng cảm thấy bâng khuâng. Đó là thái độ trân trọng những giá trị gần gũi, cơ bản và bền chặt trong một cách quan niệm đầy nhân văn về mái ấm và hạnh phúc gia đình của ông cha ta.

              Đất nước có nguồn gốc nông nghiệp như Việt Nam chúng ta nhờ có một vị trí địa lí đặc biệt nên đã trở thành điểm gặp gỡ và tụ hội những tư tưởng lớn của Á Đông. Đó là hệ tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” với sự cùng hiện hữu của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo trong tâm thức mỗi con người. Những dấu ấn về sự ảnh hưởng của các giáo lí này vẫn còn để lại trong nhóm thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN như “khẩu phật tâm xà, trơ như đít bụt, bẻ tay bụt ngày rằm, miệng bồ tát dạ ớt ngâm, tay dài như tay la hán, mũ ni che tai, ăn xôi chùa ngọng miệng, lưng chữ cụ vú chữ tâm, mặt vuông chữ điền,...”

2.2. Nét văn hóa trong lời ăn tiếng nói  

            Cách đối nhân xử thế thông qua lời ăn tiếng nói được người Việt Nam chúng ta rất coi trọng. Nó là biểu hiện của văn hóa và tư cách con người. Trong giao tiếp, người Việt Nam luôn luôn có xu hướng giữ hòa khí, tránh sự cãi cọ hay to tiếng. Bao giờ họ cũng cân nhắc đắn đo trước khi nói. Sự thận trọng đó được biểu hiện thông qua các thành ngữ như “giữ mồm giữ miệng, có mồm thì cắp có nắp thì đậy”. Trong lúc nói năng, thái độ chân thành, niềm nở, thân thiện, tươi cười bao giờ cũng được đánh giá cao. Chẳng hạn “tay bắt mặt mừng, thơm tay hay miệng, mau mồm mau miệng”. Khi nói năng, cho dù ai đó còn có chút cục cằn, thô vụng thì vẫn dễ được thông cảm và lượng thứ như “khẩu xà tâm phật, bụng ngay miệng thẳng” còn với những kẻ bề ngoài nói năng tử tế, ngọt ngào nhưng trong lòng lại nham hiểm, thâm độc thì luôn bị phê phán như trong các thành ngữ “miệng thơn thớt dạ ớt ngâm, miệng nam mô bụng một bồ dao găm, khẩu phật tâm xà,...”.

            Khuôn mặt là biểu hiện của thái độ thiện chí hay không thiện chí trong giao tiếp. Vì thế người Việt Nam thường chú ý để nhận ra sự thiếu thiện cảm qua các thành ngữ như “mặt nặng như chì, mặt nặng như đá đeo, nặng mặt sa mày,...”. Những biểu hiện thái quá trong giao tiếp cũng thường bị phê phán như “mặt đỏ như mặt gà chọi, khoa chân múa tay, nói xàu bọt mép”. Thái độ trơ lì, bất chấp tất cả, không cần quan tâm đến những người xung quanh cũng được ông cha ta phản ánh trong các thành ngữ như “mặt chai mày đá, mặt trơ trán bóng,...”. Sự luồn cúi, bợ đỡ khi giao tiếp được biểu hiện qua các thành ngữ như “cúi mặt khom lưng, quỳ gối cúi đầu”. Những kẻ có quyền thế hay giàu có thường tỏ một thái độ trịch thượng trong giao tiếp được biểu hiện  bằng thành ngữ “khinh người bằng nửa con mắt, nói như đổ mẻ vào mặt, mắng như tát nước vào mặt,...”.

            Ông cha chúng ta còn đánh giá “nhân tâm” thông qua “nhân diện” khi giao tiếp. Những thành ngữ như “mặt trái xoan, mặt vuông chữ điền” thường là biểu hiện của những con người đẹp người, đẹp nết, hiền lành, nhân hậu, vị tha, thân ái. Ngược lại những kẻ “mắt sâu râu rậm, mắt lăng mày vược, mắt la mày lét” lại thường ẩn giấu bên trong những bản chất xấu xa như ác độc, gian xảo hoặc tà dâm. Những thành ngữ như “mặt tái xanh tái xám, mặt vàng như nghệ, mặt như chàm đổ” giúp cho chúng ta nhận ra được tâm trạng chất chứa nỗi lo lắng, sợ hãi của người đang giao tiếp với mình.  

2.3. Nét văn hóa trong tính cách con người Việt Nam 

            Có một điều dễ nhận thấy về đặc điểm tính cách của người Việt Nam được nói đến trong thành ngữ là tồn tại cả những tính cách tốt, tích cực và những tính cách xấu, tiêu cực. Trong đó, nét tính cách xấu được nói đến nhiều hơn. Lí giải về điều này, có nhiều cơ sở khác nhau. Trong đó, có thể kể đến việc dân tộc Việt Nam là một cộng đồng người coi trọng sự giáo dục, ghét cái xấu, cái ác nên thường đề cập đến cái xấu, cái ác một cách thẳng thắn, không che giấu và xem đó như một cách để tự răn mình và dạy người.

            Nét tính cách xấu, tiêu cực trong một bộ phận người Việt Nam có thể kể đến là sự lật lọng tráo trở như “mặt tam mặt tứ, trở mặt như trở bàn tay, miệng nam mô bụng bồ dao găm,...”; sự nham hiểm, thâm độc trong cách xử thế như “đâm dao sau lưng, gắp lửa bỏ tay người, độc có lông trong bụng, ném đá giấu tay, ngậm máu phun người,...”; sự toan tính, cầu lợi cho riêng mình như “ngậm miệng ăn tiền”; sự hung hăng, lì lợm như “đầu trâu mặt ngựa, mặt trơ trán bóng, mày chai mặt đá...”; sự lấn lướt người khác đến mức không còn nể nang như “được đằng chân lân đằng đầu, xỏ chân lỗ mũi...”; sự hèn kém kiểu anh hùng rơm như “miệng hùm gan sứa, đánh giặc mồm,...”; sự lười nhác cũng được nói đến qua các thành ngữ như “vụng miệng biếng chân, mồm miệng đỡ chân tay, há miệng chờ sung,...”. Tính cách bợ đỡ, xu nịnh cũng là một tật xấu như “ôm châm liếm gót, quỳ gối khom lưng,...”; tính cách tham lam đến mức “tối mắt tối mũi” trước của cải vật chất mà quên đi tình nghĩa. Nhiều trường hợp là sự dại dột đến mức tự chuốc vạ vào bản thân như “đâm đầu vào tròng, húc đầu vào đá, lấy dây buộc mình,...”

            Những thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN cũng giúp cho chúng ta thấy được nhiều nét đẹp trong tâm hồn và tính cách của người Việt Nam. Ở phạm vi rộng của những mối quan hệ xã hội, người Việt luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong mọi hoàn cảnh. Họ đã “chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh, chung sức chung lòng,...” khi lao động sản xuất hay trong việc chống lại sự tàn phá của địch họa, thiên tai. Trở về với đời sống thường ngày, người Việt Nam là những con người bình dị, chất phác. Bản chất hiền lành, lương thiện cùng với một tình yêu lao động thiết tha. Họ là những người “chân chỉ hạt bột, miệng nói tay làm,...”. Sự chân thật, thủy chung được thể hiện qua các thành ngữ “lòng ngay dạ thẳng, một lòng một dạ, dạ ngọc gan vàng, lòng son dạ sắt,...”. Ông cha ta còn răn dạy con cháu rằng: “Ơn ai một chút chớ quên, oán ai một chút để bên dạ này”. Đây là một thái độ vừa phân minh rạch ròi giữa ân và oán, lại vừa hàm chứa những ý nghĩa nhân văn của sự vị tha. Lời dạy đó là một lời khuyên thật chí lí, chí tình. Khi chịu ơn thì hãy ghi nhớ để trả ơn. Chuyện oán thù thì dù cho không quên được cũng chỉ nên “để bên dạ này”, nghĩa là “cất giấu” mà không hành động, không gây thêm thù, chuốc thêm oán để tránh đi cái vòng luẩn quẩn của thế sự nhiễu nhương.  

            Trong mối quan hệ gia đình, người Việt chúng ta bộc lộ rất nhiều nét tính cách tốt như sự thủy chung của vợ chồng, sống gắn bó yêu thương, đầy trách nhiệm với nhau đến “đầu bạc răng long”. Tình cảm vợ chồng luôn mặn nồng, thắm thiết “đầu gối tay ấp, đầu gối má kề,...”. Mối quan hệ anh em trong một gia đình đã được thành ngữ lựa chọn những hình ảnh không thể tách rời nhau để biểu hiện như “máu chảy ruột mềm, như chân với tay, môi hở răng lạnh, khúc ruột trên, khúc ruột dưới...”.  

           Một nét đẹp nữa không thể không nhắc tới trong tính cách Việt Nam là sự cần kiệm trong sinh hoạt. Cần kiệm là một nét đẹp của tính cách, nó khác hẳn với sự keo kiệt, bủn xỉn. Thành ngữ “thắt lưng buộc bụng, nhịn miệng đãi khách” đã cho chúng ta thấy một cách hành xử đẹp của người Việt trong những lúc khó khăn thiếu thốn. Họ  sẵn sàng chịu nhận phần thiệt thòi về bản thân mình mà không oán thán kêu ca. Cha mẹ thắt lưng buộc bụng để nuôi con cái ăn học nên người. Hậu phương thắt lưng buộc bụng nhằm tăng cường sức mạnh về vật lực cho tiền tuyến để giành chiến thắng. Đó chẳng phải là những biểu hiện sinh động cho đức hi sinh cao cả đó sao? Phải là một dân tộc giàu nghị lực sống, chiến đấu và xây dựng thì chúng ta mới có thể đương đầu và giành chiến thắng trước những thế lực quân thù hung hãn cũng như luôn bền bỉ, kiên trì, sáng tạo trong công cuộc xây dựng đất nước đi lên từ một xuất phát điểm rất khó khăn.

            Ý thức trong việc bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước luôn là mạch nước ngầm thao thiết chảy trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Các thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN cũng góp phần phản ánh đặc điểm này. Tự thẳm sâu trong tâm hồn mỗi người dân đất việt, họ luôn coi quê hương là nơi “chôn nhau cắt rốn”, là mảnh đất thiêng liêng, là cội rễ luôn sẵn sàng chở che và nâng bước cho mỗi người trên dòng đời đầy bôn ba, ngược xuôi trăm ngả.

3. Kết luận

            L. S. Vygotsky cho rằng “A word is a microcosm of human consciousness” (mỗi từ là một tiểu vũ trụ của ý thức con người). Ở đơn vị lớn hơn từ là thành ngữ, Nguyễn Đức Dân quan niệm “Thành ngữ phản ánh lối nói, lối suy nghĩ đặc thù của mỗi dân tộc” [1; 11]. Những quan niệm này thêm một lần nữa minh chứng cho mệnh đề có tính chất chân lí: ngôn ngữ là sản phẩm của tư duy, của ý thức con người. Thông qua việc tìm hiểu thành ngữ chứa từ chỉ BPCTN dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa, chúng tôi mong muốn có thể phác họa được đôi nét về bức tranh văn hóa Việt Nam. Đó là nét đặc trưng trong đời sống nông nghiệp trồng lúa nước, là văn hóa trong giao tiếp và đặc biệt là những đặc điểm trong tính cách của người Việt chúng ta.         

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đức Dân (1983), Ngữ nghĩa thành ngữ, tục ngữ - sự vận dụng, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.

2. Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.

3.  Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (2009), Thành ngữ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.

4. Vũ Dương Ninh (chủ biên), ( 2010), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục Việt Nam. 

5. Trần Ngọc Thêm (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.

Summary

            The expression is the type of language units equivalent to words. Idioms are widely used in life and in literature. Culture is the total value of material and spiritual values ​​created by humans during labor. Language and culture have an intimate relationship with each other. Looking at the language we can imagine painting culture of the peoples of the world. We conduct group learn from phrases containing the only body parts and see the unique culture of the Vietnamese people through this group of idioms. It is a cultural characteristic of agricultural life; characteristic of the words eat voice; personality traits in humans Vietnam.

(keyword: idioms; language; culture; humans Vietnam).