Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đoàn kết là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công của cách mạng. Đoàn kết thống nhất không chỉ là sinh mệnh của toàn Đảng mà còn là vấn đề sinh tử của từng tổ chức Đảng các cấp, là vấn đề sống còn của cách mạng. Tư tưởng đoàn kết nổi bật của Người là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” [1]; “Đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là then chốt của thành công” [2]; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” [3]. Trong đó, đại đoàn kết các dân tộc là yếu tố quan trọng trong mọi thời kỳ cách mạng. Bởi vì, sự đoàn kết giữa 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam là một truyền thống vững bền, một sức mạnh vô địch, một chính sách bất di, bất dịch “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết các dân tộc anh em trong đại gia đình Việt Nam không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta” [4].
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết, thống nhất trong Ðảng là cơ sở để xây dựng, củng cố khối đoàn kết các dân tộc. Bởi vì, đồng bào không chỉ tin vào Ðảng có đường lối đúng đắn, sáng tạo mà đồng bào ta còn tin tưởng vào sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng, hướng về Ðảng, chung sức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta là người khởi xướng, vun đắp, lãnh đạo khối đoàn kết các dân tộc. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các dân tộc trong một mặt trận thống nhất rộng rãi để đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc; tự do, hạnh phúc của đồng bào, Hồ Chí Minh cho rằng: “…sức cách mạng phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh” [5]. Đảng có vai trò lãnh đạo trong việc đảm bảo các lợi ích của nhân dân. Do đó, mỗi đảng viên phải là người có đạo đức cách mạng, là công bộc của dân, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, Người khẳng định: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân Đảng ta không có lợi ích nào khác. Vì vậy cán bộ, đảng viên phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phải là người đầy tớ hết sức trung thành của nhân dân” [6]. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là nhằm thực hiện đoàn kết các dân tộc, Người viết: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt” [7].
Để hoàn thành sứ mệnh đó, Đảng ta phải là một Đảng trí tuệ, cách mạng và thống nhất. Chỉ có một Đảng như vậy, mới đủ sức tập hợp, xây dựng, lãnh đạo được khối đoàn kết các dân tộc. Sự đoàn kết trong Đảng phải gắn bó mật thiết với đoàn kết dân tộc. Khi nói về bệnh hẹp hòi trong Đảng, Người phê bình một số cán bộ, đảng viên quan liêu, hách dịch, coi thường, xa rời người dân, thiếu chân tình đoàn kết với dân: “Chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quên rằng: so với số nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết” [8]. Đối với cấp ủy và chính quyền địa phương, Người giao cho cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương phải chăm lo, giúp đỡ các đồng bào các dân tộc miền núi về mọi mặt “Bác thay mặt Trung ương và Chính phủ giao cho cán bộ từ tỉnh đến xã phải ra sức giúp đỡ hơn nữa đồng bào rẻo cao về mọi mặt” [9]. Người còn chỉ rõ: “Trung ương Đảng và Chính phủ, mà trực tiếp là các cấp uỷ đảng, các ủy ban địa phương, các cô, các chú, phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc” [10].
Vận dụng tư tưởng đoàn kết của Người, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng vấn đề đoàn kết các dân tộc. Trong 54 dân tộc của cả nước, có 53 dân tộc thiểu số, mà dân số của các dân tộc này chỉ chiếm chưa đầy 20% dân số cả nước. Có sự chênh lệch khá lớn về điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, cơ sở hạ tầng giữa đồng bào các dân tộc ở đồng bằng, đô thị với đồng bào các dân tộc ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa… Để xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trong thời kỳ đổi mới, tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa IX) ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác dân tộc đã khẳng định: “Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta” [11]. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta là giải phóng con người thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Sự phát triển không đồng đều của các vùng, nhóm dân tộc làm cho đời sống kinh tế - xã hội giữa các dân tộc chênh lệch nhau, gây nên sự mặc cảm, tự ti, làm giảm yếu tố động lực phát triển ở các dân tộc. Điều này gây khó khăn cho việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc. Vì vậy, mục tiêu lớn đặt ra cho công tác dân tộc là thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân. Đảng ta xác định: “Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển” [12]. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung” [13].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc là cơ sở lý luận trực tiếp của Đảng ta trong thực hiện công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc để xây dựng khối đoàn kết 54 dân tộc ở nước ta ngày càng vững chắc. Do đó, tiếp tục quán triệt và vận dụng sáng tạo hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về khối đại đoàn kết các dân tộc là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay và mai sau.
Tài liệu tham khảo
[1]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 9, tr.145.
[2]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.14, tr.186.
[3]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr.349.
[4]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr.250.
[5]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.3, tr. 289.
[6]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.13, tr.107.
[7]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.13, tr.495.
[8]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.5, tr.278.
[9]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.13, tr.83.
[10]. Hồ Chí Minh: Sđd, t.14, tr.166.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.