(Ảnh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, nguồn: http://www.baotangtonducthang.com/tieu-su-chu-tich-ton-duc-thang-2081888-3031980.html)
Nhân dịp kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Công đoàn Trường Đại học Tây Bắc xin trân trọng viết bài giới thiệu về thân thế, cuộc đời và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đối với cách mạng Việt Nam và thế giới.
1. Giới thiệu khái quát về cuộc đời, sự nghiệp, những cống hiến to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đối với cách mạng Việt Nam và thế giới
Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam, người đã có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng, đối với phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn; đối với việc xây dựng quan hệ đoàn kết giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp công nhân trên thế giới. Đạo đức cách mạng, tinh thần đại đoàn kết dân tộc của đồng chí là những giá trị lịch sử, là bài học lớn về công tác công vận và xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng là những tháng năm học tập, rèn luyện và đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Với trí tuệ thông minh và lòng yêu nước, đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng, trở thành một trong những người có vai trò to lớn đối với sự phát triển của phong trào công nhân, với quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và sự ra đời của Đảng. Vượt qua mọi gian khổ, nghiệt ngã của lao tù đế quốc, sự khốc liệt của chiến tranh, đồng chí đã trở thành một hình mẫu lý tưởng của người công nhân Việt Nam về sự uyên thâm nghề nghiệp, tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí tiên phong cùng những cống hiến to lớn, quan trọng đối với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Đồng chí Tôn Đức Thắng được nhân dân gọi một cách trìu mến “Bác Tôn” sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888, trong một gia đình nông dân ở Cù lao Ông Hổ, làng An Hòa, tổng Định Thành Hạ, hạt Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Lớn lên trong bối cảnh nước mất, nhà tan, được hấp thụ cả nền giáo dục Nho học và Pháp học, từ truyền thống đấu tranh yêu nước của dân tộc, đồng chí đã sớm có hoài bão, chí hướng to lớn.
Sau khi tham gia sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm Phơ-răng-xơ ở Biển Đen vào ngày 20/4/1919 và bị trục xuất khỏi nước Pháp, đồng chí đã tích cực tham gia các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Năm 1920, trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng tích cực tham gia hoạt động nghiệp đoàn và phong trào của giai cấp công nhân, thành lập và lãnh đạo Công hội bí mật ở Sài Gòn - hình thức tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu sự chuyển biến mới của giai cấp công nhân nước ta từ thời kỳ chưa có tổ chức sang thời kỳ có tổ chức. Đồng chí chính là người thành lập Công hội bí mật - tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Hoạt động của Công hội và sự tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của đồng chí đã góp phần vào sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì lẽ đó, đồng chí Tôn Đức Thắng không chỉ là chiến sĩ tiên phong của phong trào công nhân, một trong những người sáng lập tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn “là một trong các chiến sĩ lớp đầu của phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta”.
Công hội bí mật là tổ chức biểu hiện tính chính trị đầu tiên của công nhân Việt Nam. Công hội bí mật không chỉ là một bộ phận tất yếu cấu thành lịch sử và bản chất của Công đoàn Việt Nam mà còn có những giá trị cần được trân trọng giữ gìn, phát triển trong giai đoạn hiện nay. Đó là những cống hiến xuất sắc của đồng chí Tôn Đức Thắng đối với phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Việt Nam.
Tháng 8/1925, Tôn Đức Thắng cùng Công hội đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son giành được thắng lợi.
Năm 1927, Tôn Đức Thắng được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (một tổ chức tiền thân của Đảng ta); cũng trong năm đó, đồng chí được cử làm Uỷ viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn. Tháng 7/1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam ở Khám Lớn (Sài Gòn), sau đó bị kết án 20 năm khổ sai, tháng 7/1930, bị đày ra Côn Đảo. Tại đây, đồng chí đã tham gia vận động thành lập chi bộ cộng sản nhà tù Côn Đảo và là một trong những Chi uỷ viên đầu tiên.
Ngày 23/9/1945, từ Côn Đảo trở về, ngày 15/10/1945, đồng chí được bầu vào Xứ uỷ Nam Kỳ, phụ trách Uỷ ban kháng chiến, chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Tháng 12/1945, Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và các Khu 7, 8, 9 được thành lập, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức hậu cần.
Sau Cách mạng tháng Tám, đồng chí được bầu vào những chức vụ quan trọng trong Đảng và Nhà nước như: đại biểu Quốc hội khoá I, Phó Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Quốc hội sang thăm Pháp năm 1946, Phó hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt), Trưởng đoàn Chủ tịch kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I và kết thúc kỳ họp, được bầu là Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc; Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội năm 1948, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Xô năm 1950, Chủ tịch Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) năm 1951… và nhiều chức vụ quan trọng khác.
Sau khi Bác Hồ qua đời, trong phiên họp đặc biệt trung tuần tháng 9/1969, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bầu đồng chí làm Chủ tịch nước. Khi nhận trọng trách này, đồng chí xúc động phát biểu: “Được kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tịch là điều rất vinh quang đối với tôi”.
Suốt hơn 60 năm hoạt động, dù ở cương vị nào, đồng chí Tôn Đức Thắng cũng luôn gắn bó mật thiết với đồng chí, đồng bào, hiến dâng cả đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những nhà lãnh đạo mẫu mực của cách mạng Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh. Là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, sáng ngời đạo đức cách mạng, đồng chí là một mẫu mực về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, khiêm tốn, giản dị.
Gần mười bảy năm bị giam ở ngục tù đế quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn tỏ rõ là một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; thương yêu đồng chí và những người cùng cảnh ngộ. Đồng chí đã đề xướng việc thành lập Hội cứu tế tù nhân - hội tù Côn Đảo đầu tiên; góp phần quan trọng vào việc thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo, thực hiện chủ trương biến “nhà tù thành trường học cộng sản”, góp phần khôi phục hệ thống tổ chức cơ sở đảng.
Đứng trên lập trường, quan điểm giai cấp công nhân và tinh thần dân tộc, đồng chí Tôn Đức Thắng chính là tấm gương tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là một chiến sĩ quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với những cống hiến của mình, đồng chí vinh dự là người đầu tiên được nhân Huân chương Sao vàng, huân chương cao quý nhất do Đảng và Nhà nước trao tặng năm 1958 nhân dịp đồng chí tròn 70 tuổi.
Bên cạnh những cống hiến to lớn đối với dân tộc, đồng chí Tôn Đức Thắng đã có những đóng góp hiệu quả cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là một trong những nhà lãnh đạo tiêu biểu cho tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, thuỷ chung, được bạn bè thế giới ghi nhận và tôn vinh. Đồng chí được bầu làm Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam; Uỷ viên Hội đồng hoà bình thế giới; Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Xô. Đồng chí vinh dự là người Việt Nam đầu tiên được Uỷ ban Giải thưởng hoà bình quốc tế Stalin của Liên Xô trao tặng Giải thưởng Stalin “Về sự nghiệp củng cố hoà bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc” vào tháng 12/1955 (sau này mang tên là Giải thưởng Lênin); được Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và huân chương hữu nghị của nhiều nước.
Đồng chí Tôn Đức Thắng từ trần vào ngày 30/3/1980. Cuộc đời và sự nghiệp của cố chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã trở thành tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về lý tưởng sống cao đẹp của con người Việt Nam trong thế kỷ XX và mãi mãi về sau.
2. Phát huy truyền thống Công đoàn ngành Giáo dục Việt Nam nói chung, truyền thống của Trường Đại học Tây Bắc nói riêng, Công đoàn Trường Đại học Tây Bắc không ngừng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ra sức phấn đấu thực hiện tốt mọi nhiệm vụ trong tình hình mới
Với lịch sử gần 60 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Tây Bắc có sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học và sau đại học, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, khai thác các dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của vùng Tây Bắc.
Góp phần quan trọng trong việc thực hiện sứ mạng đó, Công đoàn Trường Đại học Tây Bắc cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ vai trò của tổ chức công đoàn, chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của đội ngũ CBNGNLĐ, tuyên truyền, vận động đội ngũ CBNGNLĐ thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chủ trương công tác công đoàn; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, tích cực tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động mang tính xã hội rộng lớn trong đội ngũ CBNGNLĐ, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt nhiệm vụ trên, Công đoàn sẽ trở thành cầu nối, là nơi tiếp thêm sức mạnh, khai thác, phát huy và sử dụng hiệu quả các nguồn lực và nhân tố con người trong Nhà trường Đại học Tây Bắc. Đề cao công tác tư tưởng chính trị, không ngừng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập tấm gương đạo đức cách mạng của thế hệ đi trước trong đó có tấm gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng để giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó.
Kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta càng thêm kính trọng và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đồng chí - một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người chiến sĩ hết sức trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một nhà lãnh đạo mẫu mực của Đảng, của dân tộc ta, đã hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.