06302025Thứ 2
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

SỰ BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC DÂN TỘC TRONG ĐẠI GIA ĐÌNH DÂN TỘC VIỆT NAM THỂ HIỆN TRONG CÁC BẢN HIẾN PHÁP CỦA NƯỚC TA

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Là một quốc gia có 54 dân tộc anh em, nên việc thực hiện tốt vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự bình đẳng giữa các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam là sự được đối xử ngang nhau hợp lý về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, về điều kiện và cơ hội phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa các dân tộc, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, nguồn gốc dân tộc. Để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam thì cần phải vận hành theo phương châm “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” [1]. Do đó, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được bảo đảm về mặt pháp lý. Nghĩa là mọi người trong xã hội được quyền tự do, dân chủ, thực hiện sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán quan điểm: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc. Trong Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6). Sự bình đẳng còn được thể hiện “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7). Sự giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc thiểu số cũng đã được xác định: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8).

Qua các giai đoạn cách mạng, vấn đề về quyền bình đẳng giữa các dân tộc tiếp tục được ghi nhận và phát triển trong các bản Hiến pháp tiếp theo. Hiến pháp năm 1959, tại (Điều 3) quy định: Một là, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Hai là, các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Ba là, Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Bốn là, mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm. Năm là, các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình”.

Hiến pháp năm 1980, tại (Điều 5), quy định: Một là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hai là, Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc. Ba là, Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Bốn là, Nhà nước có kế hoạch xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ phát triển kinh tế và văn hoá.

Hiến pháp năm 1992, tại (Điều 5), quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên được khẳng định: Một là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Hai là, Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ba là, các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Bốn là, Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế  mới, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung những quy định mới nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Điều đó được thể hiện tại (Điều 5): Một là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hai là, Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc. Ba là, các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Bốn là, Nhà nước có kế hoạch xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ phát triển kinh tế và văn hoá. Sự đặc biệt của Hiến pháp 2013 là quyền bình đẳng giữa các dân tộc không chỉ khẳng định tại (Điều 5) mà còn được làm rõ, nhấn mạnh hơn ở những chương sau. (Điều 42) khẳng định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp"; hay (Điều 61): “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...".

Tóm lại, quyền bình đẳng giữa các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam là một nội dung nhất quán được khẳng định trong các văn bản Hiến pháp của nước ta (Bộ luật gốc) - về quyền của các dân tộc dân tộc từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Có thể thấy, sự bình đẳng giữa các dân tộc không phải hình thành ngay một lúc, mà trải qua một quá trình được bổ sung, phát triển và hoàn thiện việc củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng vững chắc nhằm tạo động lực xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh./.

Tài liệu tham khảo:

[1]. Hồ Chí Minh (1995),Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.438. 

[2]. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2017), Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1992, 2013), Nxb Sự thật, Hà Nội.

[3]. Viện nghiên cứu Lập pháp (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - Nền tảng chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb Lao động Hà Nội, Hà Nội.