06302025Thứ 2
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

TỔ QUỐC ĐỜI ĐỜI GHI NHỚ CÔNG ƠN CỦA CÁC ANH HÙNG THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Những ngày này, trên khắp mọi miền của Tổ quốc, các hoạt động tri ân với các gia đình thương binh, liệt sĩ được thực hiện với tấm lòng thành kính, trang nghiêm. Với tinh thần uống nước nhớ nguồn, biết ơn các gia đính thương bình, liệt sỹ, các thế hệ hôm nay và mai sau sẽ tiếp nối truyền thống cách mạng của các thế hệ đi trước. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết rõ được nguồn gốc và ý nghĩa của ngày này.

Với truyền thống dựng nước và giữ nước, lịch sử đã minh chứng, mỗi khi Tổ quốc gặp hoạ xâm lăng, cả dân tộc cùng chung lưng đấu cật đánh đuổi quân xâm lược giành lại độc lập độc lập cho dân tộc. Thời cổ trung đại các triều đại phong kiến Trung Hoa và đế quốc Nguyên Mông; thời cận đại thực dân Pháp và phát xít Nhật; thời hiện đại thực dân Pháp và đế quốc Mĩ…

Trong cuộc chiến đấu đó nhiều người đã anh dũng hi sinh hoặc để lại một phẩn thân thể của mình ngoài chiến trường. Những cống hiến của các anh hùng liệt sĩ đó đã góp phần cùng dân tộc đi đến những thắng lợi vẻ vang, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám thành công đánh dấu bằng sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Cộng Hoà ngày 02 tháng 9 năm 1945.

Tuy nhiên, khi cách mạng giành chính quyền chưa được bao lâu, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, nhân dân cả nước lại một lần nữa nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường kì…”, chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong cuộc chiến đấu ác liệt đó nhiều chiến sĩ và nhân dân ta đã bị hi sinh hoặc bị thương, đổ máu trên khắp các chiến trường.

Từ năm 1947 trở đi, số người bị thương và hi sinh trong các chiến dịch ngày càng tăng cao, thương binh liệt sĩ trở thành vấn đề lớn được đặt ra và phải giải quyết. Hồ Chủ tịch là người đầu tiên nhận thức rõ điều này. Để giải quyết vấn đề này, ngày 16 tháng 2 năm 1947, tại chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ đã kí Sắc lệnh số 20/SL “Qui định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Ngoài ra, Người còn kêu gọi toàn dân và các cấp, các ngành hết lòng giúp đỡ thương binh và gia đình tử sĩ. Sắc lệnh trên được ban hành và thực hiện đã có ý nghĩa rất quan trọng trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó. Đây là văn bản đầu tiên của Đảng và Nhà nước ta khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ trong cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.

Sau khi Sắc lệnh 20 của Chính phủ được ban hành, các cấp, các ngành và tất cả các địa phương trong cả nước đã triển khai, chỉ đạo làm tốt công tác thương binh liệt sĩ. Chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta về công tác thương binh liệt sĩ được đề ra kịp thời góp phần đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho thương bệnh binh và các gia đình chính sách trong kháng chiến.

Tháng 6 năm 1947, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số tỉnh đã họp hội nghị bàn thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch về chọn ngày kỉ niệm thương binh liệt sĩ và bảo vệ công tác thương binh liệt sĩ. Hội nghị đã quyết định lấy ngày 27 tháng 7 năm 1947 làm ngày Thương binh toàn quốc. Chiều ngày 27 tháng 7 năm 1947, tại xã Hùng Sơn (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) đã diễn ra cuộc mít tinh với sự tham dự của khoảng 2.000 người. Tại cuộc mít tinh này, đại diện Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam đọc thư của Hồ Chủ tịch gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày Thương binh toàn quốc. Trong thư có đoạn Bác viết: “… Thương binh là những người đã hi sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào…Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.

Từ năm 1947 trở đi, ngày Thương binh được tổ chức thường kì mỗi năm. Hàng năm, đến ngày 27 tháng 7, Hồ Chủ tịch thường xuyên gửi thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và kêu gọi toàn xã hội phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ. Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, đến năm 1955, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định đổi ngày Thương binh 27 tháng 7 thành ngày Thương binh liệt sĩ.

Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ,  biết bao chiến sĩ và nhân dân ta đã anh dũng hi sinh hoặc bỏ lại một phần xương thịt ngoài chiến trường để giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc ta như ngày hôm nay. Có người có tên, tuổi, có người đến nay vẫn là những liệt sĩ vô danh hoặc vẫn để lại mồ sương, nắm đất ngoài biên ải xa xôi. Chiến tranh đã kết thúc, đất nước đã được hòa bình, nhân dân đã được ấm no, hạnh phúc, nhưng những hi sinh mất mát trong chiến tranh của biết bao thế hệ người Việt Nam là không gì bù đắp nổi. Mỗi người dân chúng ta hôm nay và mai sau mãi mãi biết ơn, kính trọng, ghi nhớ công lao của các liệt sĩ, thương binh đã quên mình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tổ quốc đời đời ghi nhớ công ơn của các anh hùng thương binh, liệt sĩ, sự hy sinh của các anh là “để đất nước nở hoa, để dân tộc trường tồn, để lịch sử tiếp nối các thế hệ”./.