06302025Thứ 2
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP (1789) VÀ HỆ MÉT

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Trong cuộc sống, có nhiều sự việc, sự vật trở nên quen thuộc tới mức chúng ta không bao giờ phải đặt ra câu hỏi tại sao lại như vậy. Hệ mét (meter) là một ví dụ. Chúng ta chưa bao giờ tự hỏi tại sao chiều cao con người lại được tính bằng mét? Tại sao quãng đường lại được tính bằng Km? Tại sao 1000m lại bằng 1km? Tại sao tốc độ ánh sáng lại được tính bằng 299.792.458m/s?…Tuy quen thuộc và đơn giản như vậy nhưng sự ra đời và phổ biến của hệ mét lại là một câu chuyện lịch sử kì thú. Nó phản ánh những tư tưởng cách mạng trong Cách mạng tư sản Pháp (1789). Đây là cuộc cách mạng có sự thống nhất giữa những thành tựu khoa học tự nhiên, tư tưởng dân chủ, những lí tưởng chính trị cao đẹp và cuộc đấu tranh thủ tiêu những tư tưởng và hệ chính trị bảo thủ, lạc hậu. Cho đến nay, chúng ta mới chỉ tập trung đánh giá ý nghĩa của cuộc Cách mạng tư sản Pháp ở góc độ chính trị, nhưng ít ai quan tâm và hiểu biết đầy đủ về những giá trị tư tưởng và văn hóa mà cuộc cách mạng này mang lại cho nhân loại. Đó chính là sự phổ biến của những tư tưởng triết học Khai sáng ra toàn cầu, dẫn đến cuộc cách mạng về mặt tư tưởng và khoa học của thời cận đại.

Mục tiêu của những người làm cuộc Cách mạng tư sản Pháp là thủ tiêu tận gốc rễ những tư tưởng bảo thủ, phản động phong kiến, mở đường cho việc xác lập nền dân chủ và sự giải phóng toàn diện con người, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất tư bản phát triển. Nhưng thay vì dựa vào niềm tin cách mạng là chủ yếu như nhiều cuộc cách mạng trước đó và sau này, lực lượng thực hiện cuộc Cách mạng tư sản Pháp đã dựa trên nền tảng của những tiến bộ khoa học. Việc sáng tạo và sử dụng hệ đo lường mét là một ví dụ điển hình.

Trong quá trình tiến hành cuộc cách mạng Pháp, lực lượng tiến bộ quyết tâm làm thay đổi bộ mặt của toàn xã hội. Những tư tưởng nhân văn và thành tựu của Thời kì Khai sáng được lấy làm cơ sở. Một trong những yêu cầu đặt ra là phải thống nhất về đo lường. Trước đây, dựa vào ý chí của lực lượng lãnh đạo, tập quán địa phương, mỗi nơi có cách tính đơn vị đo lường khác nhau. Khi chính phủ mới nắm quyền lực, Viện Khoa học đã họp lại và sửa đổi hệ thống đo lường. Những tiêu chuẩn cũ dựa trên sự độc đoán của chính quyền hay truyền thống địa phương bị thay thế bởi các quan hệ toán học và tự nhiên. Ví dụ từ mét (meter) là chữ cổ Hy Lạp mang nghĩa đo lường, được định nghĩa bằng 1/10 triệu khoảng cách giữa đường xích đạo và cực Bắc. Hệ đo lường mét mới, theo nhận xét của Marquis de Condorcet (1743-1794) – một đại diện tiêu biểu của nền Triết học Khai sáng: "Cho mọi người, mọi thời điểm". Trên nền tảng hệ đếm thập phân, mét được sử dụng làm đơn vị cơ sở trong đo lường. Người Pháp cho rằng chia cho số 10 thì dễ dàng hơn là dùng hệ thống cũ, ví dụ như nước đóng băng ở 0 độ C, sôi ở 100 độ C, chứ không phải 212 như độ F.

Tác dụng đầu tiên của việc chuẩn hóa đo lường là mang lại những lợi thế chính trị cho lực lượng cách mạng. Địa chủ không thể gian dối bằng đơn vị cũ để thu tô từ dân thường, trong khi chính phủ thu thuế hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do thói quen đã ăn sâu vào suy nghĩ của những người dân qua nhiều đời, việc đưa hệ thống mới vào sử dụng không hề dễ dàng. Ban đầu mọi người sử dụng đơn vị mới và cũ cùng lúc với nhau. Điều này tạo ra những bất tiện trong cuộc sống. Tuy nhiên với những giá trị khoa học, các đơn vị đo lường mới dần chiếm được vị thế trong đời sống.

Khi Napoleon Bonaparte lên nắm quyền, ông cho phép tiểu thương sử dụng hệ đo lường truyền thống tinh chỉnh qua hệ mét. Nhưng hệ mét được lấy làm chuẩn cho đo lường nói chung. Cuộc chiến tranh của Napoleon Bonaparte không chỉ đem những tư tưởng tiến bộ của Cách mạng Pháp tưới khắp châu Âu mà còn mang theo cả hệ đo lường mới. Đế chế của Napoleon chỉ kéo dài 8 năm nhưng di sản của nó kéo dài lâu hơn rất nhiều. Sau khi Napoleon bị lật đổ, vài quốc gia châu Âu quay về sử dụng hệ đo lường cũ. Các nước khác nhận ra giá trị của chuẩn hóa trong kỉ nguyên giao thương toàn cầu. Sau khi Bồ Đào Nha và Hà Lan tự nguyện chuyển sang dùng hệ mét, các quốc gia khác noi theo và chủ nghĩa đế quốc, thực dân mang hệ mét đi khắp thế giới trong đó có Đông Nam Á và Việt Nam.

Cùng với sự xác lập của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu, sự thống nhất của thị trường thế giới thì nhu cầu có một hệ thống tiền tệ và đo lường để trao đổi mua bán với các nước khác đã xuất hiện. Trong thực tế, chẳng có quốc gia nào lại muốn áp dụng hệ thống đo lường của quốc gia khác. Chính vì vậy mà họ quyết định có một hệ thống đo lường quốc tế để tất cả các nước có thể trao đổi hàng hoá và buôn bán với nhau; đó là hệ thống đo lường mét.

Là đối thủ chính của Pháp, Anh từ chối ý tưởng cấp tiến đó và giữ nguyên hệ đo lường cũ. Nhưng hai thế kỉ sau đó, đế quốc Anh dần chuyển mình, chấp thuận hệ mét như một hệ đo lường phụ trước khi tiến tới công nhận chính thức. Hệ thống đo lường mét tiếp tục được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là sau khi chủ nghĩa thực dân sụp đổ và các nước mới dành được độc lập như Indonesia, Ấn Độ, hay Kenya,… đều tham gia vào hệ thống quốc tế này. Sang thế kỉ XX, hệ mét đã trở thành hệ thống đo lường quốc tế và được hầu hết các nước trên thế giới tham gia.

Hiện hay, hệ mét được dùng hầu như trong mọi ứng dụng khoa học và y học. Nó liên tục phát triển theo những nguyên tắc cơ bản của mình. Trong một thời gian dài, đơn vị đo chuẩn được xác định với những mẫu vật được bảo quản kĩ lưỡng. Nhờ có công nghệ tiến bộ và sự chính xác, những vật thể ít được tiếp cận và có tuổi thọ không chắc chắn này đang được thay thế bới những chuẩn dựa trên hằng số phổ quát, như tốc độ ánh sáng. Đơn vị đo chuẩn gắn liền với cuộc sống hàng ngày của chúng ta tới mức khó mà thấy hết tầm quan trọng của nó với nhân loại lại có nguồn gốc từ cuộc cách mạng chính trị. Hệ mét là một phần không thể thiếu cho những cuộc cách mạng khoa học sắp tới.

Hiện nay, trên thế giới chỉ còn 3 nước không tham gia hệ thống này: Miến Điện, Li-Băng và Hoa Kỳ. Riêng với Hoa Kỳ thì việc không sử dụng hệ mét lại là một câu chuyện mang đặc trưng của nền dân chủ và lịch sử Hoa Kỳ.

Về mặt lịch sử, khi nước Anh chính thức thừa nhận và sử dụng hệ mét trong vương quốc thì các bang của Bắc Mĩ đã giành được độc lập hàng thế kỉ.  Do vậy, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ mắc kẹt với hệ đo lường của Anh từ quá khứ thuộc địa. Và cho tới nay, Mỹ là một trong ba quốc gia duy nhất không hoàn toàn sử dụng hệ đo lường mét. Nhiều người Mỹ vẫn coi đơn vị như feet hay pound dễ dàng hơn.

Trong quá trình phát triển, ở Hoa Kỳ đã nỗ ra cuộc đấu tranh giữa cách dùng hệ đếm cũ với hệ mét. Cuộc đấu tranh này vẫn chưa có hồi kết và Hoa Kỳ vẫn sử dụng hệ đếm cũ. Năm 1866, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua việc sử dụng hệ thống đo lường mét và sau gần một thập niên, Hoa Kỳ trở thành một trong 17 nước đầu tiên ký kết hiệp định về hệ thống mét. Tuy nhiên, hệ thống đo lường mét vẫn không được áp dụng ở Mỹ, mặc dù quốc hội đã thông qua. Một hệ thống đo lường tiên tiến hơn được thông qua vào năm 1960 và được gọi là hệ thống đo lường đơn vị (system of units), gọi tắt là SI.

Năm 1975, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Dự Luật Chuyển Đổi Mét (Metric Conversion Act) và Hội Đồng Chuyển đổi hệ thống lo lường mét (U.S Metric Board) cũng được thành lập để tham gia vào việc thực hiện việc chuyển đổi hệ thống đo lường qua mét. Nước Mỹ bắt đầu tiến hành các bản chỉ dẫn đường thông báo khoảng cách nơi đến còn bao xa bằng kilomet dưới thời tổng thống Jimmy Carter- người ủng hộ sử dụng hệ thống đo lường mét. Xa lộ 19, nơi kết nối Tucson, Arizona và Mexico là xa lộ duy nhất còn bản chỉ dẫn bằng kilomet hiện nay ở Mỹ. Vào cuối những năm 1970, những nhà sản xuất xe hơi bắt đầu chế tạo ra đồng hồ chỉ tốc độ cả bằng kilomet và bằng dặm (miles). Nhưng khi nhìn vào đồng hồ chỉ tốc độ với mức 88 km/1 giờ thì nghe “oách” hơn rất nhiều so với đi với tốc độ khoảng 55 miles/1 giờ.

Các cuộc tranh luận về hệ thống đo lường trở nên căng thẳng và gay gắt hơn. Những người ủng hộ hệ thống đo lường mét cho rằng việc có thay đổi các bản chỉ đường khoảng cách còn bao xa trên xa lộ giúp cho dân Mỹ có thể làm quen với việc thay đổi hệ thống đo lường mới này. Nhưng thành viên của đảng Cộng hoà, ông Charles Grassley, và sau đó trở thành thượng nghị sĩ của tiểu bang Iowa bác bỏ việc thay đổi này. “Bắt người dân Mỹ chuyển đổi qua hệ thống đo lường mét là đi ngược lại quyền tự do dân chủ của người dân,”. Grassley được rất nhiều dân Mỹ ủng hộ. Những người phản đối hệ thống mét ngày một nhiều hơn và họ hợp lại thành một liên minh lớn để cố gắng ngăn cản việc chuyển đổi qua hệ thống mét xảy ra.

Cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789) là một ví dụ điển hình cho sự thống nhất tư duy khoa học với lí tưởng cách mạng. Giá trị rộng lớn và bền vững của Cách mạng tư sản Pháp không chỉ nằm ở những giá trị dân chủ và nhân văn mà còn ở những cơ sở khoa học làm nền tàng cho những tiến bộ về lí tưởng và học thuyết chính trị. Ở đây người ta không làm cách mạng bằng niềm tin và những khẩu hiệu về một tương lai mới. Hệ đo lường mét không chỉ là kết quả mà còn là minh chứng cho những những giá trị to lớn mà cuộc Mạng tư sản Pháp đã đem đến cho lịch sử nhân loại.