07012025Thứ 3
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

NHÓM HƯ TỪ MANG NGHĨA CHỈ MỤC ĐÍCH TRONG TIẾNG VIỆT

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Abstract: Vietnamese function words of purpose include để, cho, mà, nhằm, hòng, vì, ngõ hầu, đặng, etc. The general purposivemeaning of this group is concretizedin different nuances of purpose depending on the contextsof usage. They can be the purposes indicating various attributes of psychology, biology, process, activity, result, consequence; the purposes of strong or weak determination; the purposes of subjectivity such as induction, assumption, suggestion; the purposes of neutral or negative meaning, etc. These nuances reflect thespecial semantic functions of this groupof words whichcould bring in diverse communicative messages for utterances.

Key words: Function words, function words of purpose; semantics, meaning offunction words of purpose.

1. Đặt vấn đề

Mục đích là “cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho được” [1, 644]. Trong phát ngôn/câu, quan hệ mục đích là quan hệ giữa A và B, trong đó A là sự tình diễn ra trước, B là hệ quả tất yếu hoặc là mong muốn chủ quan của chủ thể thực hiện/liên quan tới sự tình A trước đó. Nói cách khác, B thúc đẩy, quyết định sự ra đời, sự tồn tại cũng như các đặc tính của A. Trong ngữ cảnh đó, B được đánh dấu bởi nhóm hư từ mang nghĩa chỉ mục đích trong tiếng Việt, bao gồm các từ: để, cho, mà, nhằm, hòng, vì, ngõ hầu, đặng... Dù cùng có chung nghĩa khái quát chỉ mục đích song mỗi hư từ trong nhóm vẫn mang những sắc thái khác nhau. Bài viết đặt vấn đề nghiên cứu đặc điểm đồng nhất và khác biệt giữa các hư từ trong nhóm trên về phương diện ngữ nghĩa. Qua đó, có thể khẳng định hiện tượng đồng nghĩa xuất hiện ở cả hư từ, mang theo những giá trị ngữ nghĩa tinh tế và phong phú.

2. Đặc điểm đồng nhất

Nhóm hư từ để, cho, mà, nhằm, hòng, vì, ngõ hầu, đặng... thực hiện nhiệm vụ nối kết các đơn vị trong phát ngôn/câu theo quan hệ chính phụ. Trong đó, phần đứng sau các hư từ chỉ mục đích đề ra hoặc mục tiêu cần đạt được của phần được nêu trước đó (hoặc đã xảy ra trước đó). Nói cách khác, các hư từ trong nhóm đều có chung ý nghĩa khái quát chỉ mục đích. Vận dụng thủ pháp cải biến, thay thế, có thể nhận diện phần nghĩa chung này không mấy khó khăn.

(1) Hôm nay tôi đặt chị xuống truyện ngắn này, chính thức trút đi một gánh nặng để thanh thản. (VM10)

Để  đánh dấu trạng thái thanh thản (B) là đích hướng tới của hành động đặt chị xuống truyện ngắn, trút đi gánh nặng (A) của nhân vật tôi. Có thể thay thế để  bằng các hư từ trong nhóm mà phần nghĩa mục đích này vẫn không hề mất đi, tuy nhiên sắc thái nghĩa có thể khác nhau.

(1a) Hôm nay tôi đặt chị xuống truyện ngắn này, chính thức trút đi một gánh nặng cho thanh thản.

(1b) Hôm nay tôi đặt chị xuống truyện ngắn này, chính thức trút đi một gánh nặng thanh thản.

(1c) Hôm nay tôi đặt chị xuống truyện ngắn này, chính thức trút đi một gánh nặng hòng thanh thản.

(1d) Hôm nay tôi đặt chị xuống truyện ngắn này, chính thức trút đi một gánh nặng nhằm thanh thản.

3. Đặc điểm khác biệt

Nghĩa khái quát chỉ mục đích được cụ thể hóa thành các sắc thái mục đích khác nhau trong nội dung ngữ nghĩa của mỗi hư từ trong nhóm. Mỗi hư từ có những sắc thái riêng không lặp lại ở các hư từ khác. Để tìm ra những sắc thái khác biệt này, chúng tôi triệt để sử dụng phương pháp dùng “ngữ cảnh trống” - ngữ cảnh chỉ chấp nhận nghĩa của một hư từ duy nhất - của tác giả Nguyễn Đức Tồn [4]. Trong quá trình phân tích, chúng tôi có sử dụng lời giải thích của các tác giả Hoàng Trọng Phiến [2] và Đỗ Thanh [3] như những tham chiếu để làm rõ hoặc bổ sung.

a) Để

Để được giải nghĩa là “biểu hiện nghĩa mục đích trong các câu đơn” [2, 96] hoặc được mô tả là “với ý nghĩa chỉ mục đích, để  có nghĩa như cho” [3, 59].

Qua phân tích ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy để  là từ trung tâm của nhóm hư từ đồng nghĩa này, nó có khả năng diễn đạt những nội dung khá phong phú khi đánh dấu phần B trong phát ngôn. B có thể là trạng thái tâm lí:

(2) Để quên thời giờ, để chờ khách hành, họ hút thuốc bào, họ bỏ từng nắm hồng qua tử vào mồm. (NT)

B có thể là một khả năng:

(3) Phải chờ rất lâu đám bụi mới loãng ra để có thể nhìn thấy đường. (VM05).

B có thể là một quá trình:

(4) Biển đã hoà tan quá nhiều nước mắt. Để trở nên mặn chát hơn bao giờ. (VM09)

B cũng có thể là một hoặc một chuỗi các hành động, sự tình:

(5) Ba bốn giờ chiều mới bắt đầu, nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưa. Để ngài điểm. (NHK)

(6) Tao chưa thấy có đứa con gái nào sống là để yêu, để mơ một giấc mơ lớn đến nơi đến chốn, để đi đây đi đó làm cái gì riêng mình cho là quan trọng. (VM05)

(7) Dân làng chài đẻ nhiều con, nhất là con trai. Để đi biển. Để phòng khi biển bắt mất người. (VM09)

Trong mối quan hệ với B được đánh dấu bởi để, A có thể là giả thiết:

(8) - Dạo ấy chưa có ai quay video, chứ không thì đã có bao nhiêu đĩa ghi để đến bây giờ làm kỉ niệm. (VM11)

A có thể có thuộc tính sự vật:

(9) Trong những hành trang mang theo để đi nốt khúc thời gian còn lại có ngôi nhà, mảnh vườn của bố mẹ tôi. (VM10)

Để  thường được dùng biểu đạt mối quan hệ mục đích giữa A và B khi A có nội dung phủ định.

(10) Một cái chữ ký và một cái khoa triết tự không đủ để nói thầm về tâm hồn và lý tưởng của một người nghệ sĩ phức tạp. (NT)

(11) Thấy người ta đều vui vẻ, tôi không muốn buồn nữa. Tôi không muốn thơ thẩn một mình để nghĩ đến chuyện riêng. (NT)

Các sắc thái mục đích nói trên của để  không lặp lại ở các hư từ khác trong nhóm.

b) Cho

Cho được giải nghĩa là “biểu thị nghĩa tiếp nhận của đối tượng, nghĩa mục đích của hành động thứ nhất. Thường thường có vị ngữ thứ hai liên quan với mục đích” [2, 57] hoặc được mô tả là “nghĩa tương tự như để” [3, 29].

Trên thực tế sử dụng, A và B trong quan hệ mục đích được đánh dấu bởi cho là hai sự tình tương đối độc lập, trong đó B là mục đích, có tính chất giống như một hệ quả tức thì của A. Hệ quả này xuất hiện từ sự suy ý của người nói nên có tính chất giả thiết, giống với một khả năng.

(12) Có gã thức thời cười khẩy bảo người cả đống đi bớt cho nhẹ đất, gì mà phải giữ. (VM05)

Nhẹ đất là nhận định của nhân vật hắn về tác động tất yếu của sự tình người cả đống đi bớt. Nhận định này mang tính chủ quan, thể hiện quan điểm của người nói đối với nội dung hiện thực được phản ánh. Tính chất này của mục đích được đánh dấu bởi cho cũng xuất hiện trong ví dụ sau:

(13) Sáng mai, kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. (NHK)

Như vậy, B xuất hiện nhờ tác dụng, hiệu quả trực tiếp của A.Cho tương đương về nghĩa với giúp. Ví dụ sau:

(14) Tôi bảo con gái tôi:

- Thôi, con cố mà kèm cái Lương cho nó thi đỗ. Có cái bằng, nó xin đi học việc cũng thuận hơn.(MVK)

Câu (14) có thể được diễn đạt tương đương thành:

(14a) - Thôi, con cố mà kèm cái Lương giúp nó thi đỗ. Có cái bằng, nó xin đi học việc cũng thuận hơn.   

Nó thi đỗ chỉ là một khả năng có thể xảy ra của hành động kèm cái Lương. Người nói chỉ nêu một gợi ý về mục đích với tư cách hệ quả, tác dụng của hành động ở A. Nếu mục đích thi đỗ được đánh dấu bằng để  thì sắc thái này sẽ không còn.

(14b) - Thôi, con cố mà kèm cái Lương để nó thi đỗ. Có cái bằng, nó xin đi học việc cũng thuận hơn.           

Mục đích nó thi đỗ  trong trường hợp này là mong muốn/ý chí phải đạt tới của hành động kèm cái Lương.

Với sắc thái chỉ mục đích như kết quả của hành động, cho có chức năng nhấn mạnh phần mục đích và hoàn toàn có thể lược khỏi quan hệ mục đích giữa hành động và kết quả. Chẳng hạn: học cho giỏi nhé! có thể lược thành học giỏi nhé!; chữa cho dứt bệnh có thể lược thành chữa dứt bệnh; nghĩ cho kĩ đi có thể lược thành nghĩ kĩ đi.

c) 

Mà được mô tả là “biểu thị nghĩa mục đích” [3, 109] và trong [2] thì không được giải nghĩa như một hư từ chỉ mục đích.

Trong tương quan với các hư từ trong nhóm, nếu cho thường thể hiện quan hệ mục đích giữa những sự tình độc lập thì thường thể hiện quan hệ mục đích giữa những hành động có thuộc tính gần nhau.

(15) Nghĩ đi nghĩ lại thấy thời gian cho mỗi đời người đâu có bao la bát ngát mà thấy thằng như cậu không tính đếm đong đo rồi yêu đời sống.(VM10)

Mà  thường đánh dấu mục đích trong những phát ngôn có chứa yếu tố phủ định:

(16) Thơ phú thế có giết người không? Ai biết đằng mô lần, đoán. (NT)

Hoặc các phát ngôn có tình thái cầu khiến:

(17) Em ơi, xin em hãy nhập hồn vào bức tranh “Thiếu nữ với hoa ngọc trâm” ấy trừng phạt tâm hồn tôi tan nát tới giây phút nhắm mắt lìa đời.(VM09)

d) Nhằm

Nhằm được giải nghĩa là “biểu thị mục đích mà hành động hướng tới. Có nghĩa tương đương với để” [2, 183] hoặc “biểu thị ý nghĩa mục đích, đồng nghĩa với để” [3, 136].

Nếu để  thể hiện đích cần đạt của hành động thì nhằm biểu hiện hướng mục tiêu của hành động. Tính chất bắt buộc phải hoàn thành mục đích của nhằm vì vậy thấp hơn để. Trong sử dụng, nhằm  thường được dùng để thể hiện ý nghĩa việc thực hiện hành động A là có chủ trương, ý đồ B.

(18) Xuyên tạc ý nghĩa của lối sống khổ hạnh, vốn là một nỗ lực cao quý của con người nhằm chống lại những cám dỗ vật chất tầm thường, hướng tới sự viên mãn tinh thần thực sự, Phùng thực hiện một cách sống khắc khổ cực đoan với mục đích hoàn toàn vụ lợi. (VM05)

đ) Hòng

Hòng được giải nghĩa là “biểu hiện ý đồ thực hiện một hành động nào đó nhằm mục đích có lợi cho mình” [2; tr. 124] hoặc là “có nghĩa như để nhưng có sắc thái xấu” [3, 84]

Như vậy, hòng thường được dùng để biểu hiện những mục đích có sắc thái tiêu cực. Tiêu cực bởi tác động ảnh hưởng không tốt hoặc tính chất gây hại. Hành động, sự việc được tiến hành trước đó để tạo ra nội dung mục đích thường được coi là có ý đồ, có tính toán hoặc bất thường.

(19) - Vụ 8A có bàn tay ai, tôi biết. Mọi âm mưu hòng hạ uy tín của tôi đã hình thành từ đầu năm học. (MVK)

Sắc thái tiêu cực khiến hòng có thể kết hợp với âm mưu (và các hiện tượng, sự việc mang đặc điểm tiêu cực khác). Trong phát ngôn này, không thể dùng cố gắng, nỗ lực thay cho âm mưu, và cũng khó có thể thay hòng bằng các từ chỉ mục đích khác trong nhóm, trừ nhằm. Nhưng nếu dùng nhằm thì sắc thái đánh giá tiêu cực sẽ không còn đậm nét.

(20) Tuyệt vọng cùng đường, hắn đã đâm nát thằng bé hòng thoát thân. (VM05)

Tình thái đánh giá của hòng mang tính chất nhấn mạnh mục đích, coi đó là mục đích duy nhất của hành động, trạng thái nào đó.

e) 

Vì  được giải nghĩa là “biểu thị mục đích của hành động” [2, 289] hoặc “biểu thị đối tượng hoặc mục đích của hoạt động” [3, 217].

Ngữ liệu cho thấy, mục đích được đánh dấu bằng vì  thường là động cơ của hành động trước đó.

(21) Ở nhà quê cũng vậy, làm, làm đến chết người, cũng chỉ mỗi ngày mấy bữa cơm,ngoài ra, chẳng hề có một cái lạc thú gì khác nữa. (NC)

Vì mang sắc thái chỉ động cơ, nguyên nhân khiến dẫn đến hành động A nên trong phát ngôn trên có thể thay thế bằng tổ hợp: để có.

g) Ngõ hầu

Ngõ hầu được giải nghĩa là “biểu hiện hành vi nhằm một mục đích nào đó” [2, 179] hoặc là “từ cũ, chỉ mục đích, nghĩa tương tự như để” [3, 133].

Như vậy, ngõ hầu chỉ mục đích với sắc thái cổ, diễn ra trong các phạm vi giao tiếp không hiện đại.

(22) - Trong đời một ông quan, họ không kết hôn một lần. Mà thường là… ít nhất ba lần chính thức.

- Ba lần… ít nhất?

- Đúng thế. Lần thứ nhất là thuở hàn vi. Lúc này họ cần một người đàn bà tần tảo, chịu thương chịu khó, ngõ hầu có thể giúp họ lập thân lập nghiệp bằng con đường học hành, khoa cử(MVK)

Sắc thái cổ của ngõ hầu được đánh dấu trong đoạn hội thoại trên ở đặc điểm là từ Hán Việt và qua các cách nói, các hiện tượng thuộc về quá khứ như quan, hàn vi, khoa cử. Hư từ này hiện tại vẫn được sử dụng mỗi khi người nói có mục đích tạo một không khí vừa cổ xưa, vừa trang trọng. Trong ví dụ trên, ngõ hầu còn mang sắc thái nghĩa thực hiện A là mong đạt cho được B.

h) Đặng

Đặng được chú giải là “biểu hiện mục đích như để nhưng mục đích xa hơn” [2, 93] hoặc “chỉ mục đích, có nghĩa như để, để mà” [3, 57].

A có thể có nhiều mục đích, các hư từ trong nhóm thường diễn đạt tính chất ngang bằng nhau của các mục đích này, nếu dùng đặng thì mục đích được đánh dấu bởi đặng mang tính chất là mục đích cuối cùng, cao nhất của A.

(23) Xuyên tạc ý nghĩa của lối sống khổ hạnh, vốn là một nỗ lực cao quý của con người nhằm chống lại những cám dỗ vật chất tầm thường, hướng tới sự viên mãn tinh thần thực sự, Phùng thực hiện một cách sống khắc khổ cực đoan với mục đích hoàn toàn vụ lợi. (VM05)

Trong phát ngôn trên, đặc điểm ngang hàng nhau của hai mục đích chống lại những cám dỗ vật chất tầm thường hướng tới sự viên mãn tinh thần thực sự sẽ thay đổi nếu bổ sung đặng. Mục đích nào được đánh dấu bởi đặng sẽ được đánh giá là mục đích xa nhất, mục đích cuối cùng của A.

(23a) Xuyên tạc ý nghĩa của lối sống khổ hạnh, vốn là một nỗ lực cao quý của con người nhằm chống lại những cám dỗ vật chất tầm thường, đặng hướng tới sự viên mãn tinh thần thực sự, Phùng thực hiện một cách sống khắc khổ cực đoan với mục đích hoàn toàn vụ lợi.

(23b) Xuyên tạc ý nghĩa của lối sống khổ hạnh, vốn là một nỗ lực cao quý của con người nhằm hướng tới sự viên mãn tinh thần thực sự, đặng chống lại những cám dỗ vật chất tầm thường, Phùng thực hiện một cách sống khắc khổ cực đoan với mục đích hoàn toàn vụ lợi.

Sắc thái này của đặng cũng thể hiện rõ trong ví dụ sau:

(24) Mở rộng mạng lưới trường tư để thu hút nhiều học sinh; đặng góp phần vào công cuộc phổ cập cấp 1, tiến đến phổ cập cấp 2(Dẫn theo [2, 93]).

Như vậy, tuy cùng thực hiện chức năng ngữ nghĩa chỉ mục đích trong phát ngôn nhưng khả năng hiện thực hoá ý nghĩa khái quát này ở mỗi hư từ trong nhóm là rất cụ thể và khác biệt. Những sắc thái ý nghĩa chỉ mục đích của mỗi hư từ có khi là những đặc trưng riêng không lặp lại ở các hư từ khác trong nhóm. Một cách tổng quát, có thể phân xuất các kiểu ý nghĩa sắc thái hoá của các hư từ trong nhóm thành một số đặc điểm tiêu biểu sau:

Về kiểu loại mục đích, có thể phân xuất thành các nhóm: nhóm mục đích là trạng thái tâm lí (để), nhóm mục đích là quá trình (để, nhằm), nhóm mục đích là chuỗi các hoạt động, quá trình (để, nhằm), nhóm mục đích là động cơ thúc đẩy hành động (), nhóm mục đích là hệ quả, kết quả tất yếu (để, cho, mà), nhóm mục đích là mục đích của một mục đích khác (đặng).

Về mức độ ý chí quyết tâm thực hiện cho được, có thể phân xuất hai nhóm: nhóm mục đích có mức độ ý chí quyết tâm cao (để, hòng, đặng, vì) và nhóm mục đích có mức độ ý chí quyết tâm không cao (cho, mà, nhằm, ngõ hầu).

Về tình thái chủ quan của mục đích, có thể phân xuất thành các nhóm sau: nhóm mục đích có tình thái suy ý (cho), nhóm mục đích có tình thái cầu khiến đề nghị, gợi ý (cho, mà), nhóm mục đích có tình thái đánh giá tiêu cực (hòng), nhóm mục đích có tình thái trung hoà (để, vì, nhằm, đặng, ngõ hầu).

3. Kết luận

Nhóm hư từ mang nghĩa chỉ mục đích trong tiếng Việt gồm các từ: để, cho, mà, nhằm, hòng, vì, ngõ hầu, đặng... Nghĩa chỉ mục đích là đặc điểm ngữ nghĩa đồng nhất, chung cho cả nhóm. Nghĩa chung này được cụ thể hóa thành các sắc thái mục đích khác nhau trong từng hoàn cảnh sử dụng của từng hư từ trong nhóm. Đó là các mục đích có thuộc tính tâm lí, sinh lí, quá trình, hoạt động, hệ quả, kết quả...; có ý chí quyết tâm thực hiện cao hay không cao; có tình thái chủ quan như suy ý, gợi ý, đề nghị...; có tình thái trung hòa hoặc tiêu cực... Những sắc thái trên thể hiện chức năng ngữ nghĩa đặc biệt của nhóm hư từ chỉ mục đích trong hoạt động hành chức, góp phần tạo nên thông điệp giao tiếp phong phú cho phát ngôn.

NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN VÀ QUY ĐỊNH CÁCH VIẾT TẮT TRONG BÀI

1. Nam Cao, Tuyển tập Nam Cao, tập 2, Nxb Văn học, H., 2003. (NC).

2. Ma Văn Kháng, Truyện ngắn, Nxb Công an nhân dân, H., 1996. ( MVK96).

4. Nguyễn Hoành Khung (tuyển chọn),Truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, Nxb GD, 2008. (NHK).

5. Hồ Anh Thái, Văn mới 5 năm đầu thế kỷ (Hợp tuyển truyện ngắn của các tác giả đang được mến mộ), Nxb Hội Nhà văn, H., 2005. (VM05).

7. Hồ Anh Thái, Văn mới 2009 - 2010 (Tuyển văn xuôi của các tác giả mới và tác giả đang được mến mộ), Nxb Hội Nhà văn, H., 2010. (VM10).

8. Hồ Anh Thái, Văn mới 5 năm 2006 - 2010 (Tuyển văn xuôi của các tác giả mới và tác giả đang được mến mộ), Nxb Hội Nhà văn, H., 2010. (VM10).

9. Hồ Anh Thái, Văn mới 2010 - 2011 (Tuyển văn xuôi của các tác giả mới và tác giả đang được mến mộ), Nxb Hội Nhà văn, H., 2011. (VM11).

10. Nguyễn Tuân, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1, Nxb Văn học, H., 1996.(NT).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, H., 1992.

2. Hoàng Trọng Phiến, Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt, Nxb Tri thức, H., 2008.

3. Đỗ Thanh, Từ điển công cụ tiếng Việt, Nxb GD, H., 1998.

4. Nguyễn Đức Tồn, Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb KHXH, H., 2006.