07012025Thứ 3
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CÂY THUỐC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC H’MÔNG TẠI XÃ ĐỨA MÒN, HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Cây thuốc dân tộc và tri thức bản địa về sử dụng cây cỏ làm thuốc của các dân tộc ở Việt Nam là một nguồn tài nguyên quý giá, có giá trị khoa học và có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Từ xa xưa, trước khi có sự xâm nhập vào Việt Nam của Trung y (thời kỳ Bắc thuộc: 197 trước CN - 938 sau CN) và Tây y (thời kỳ Pháp thuộc: 1884 - 1945), thì người Việt cổ trước đây và cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã có nền y học dân gian, gia truyền bản địa (YHGT) phát triển rất phong phú và đa dạng. Cùng những kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc và cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã chứng minh cơ sở khoa học của những cây thuốc qua các thành phần hóa học có tác dụng kháng khuẩn, sát trùng, …. con người đã thấy rõ tác dụng của cây thuốc. Hiện nay con người phải đối mặt với những thử thách lớn khi môi trường ngày càng ô nhiễm, thiên tai dịch bệnh liên tục xảy ra, xuất hiện nhiều loại bệnh mà nguồn thuốc tây vẫn chưa thể chữa được. Chữa bệnh bằng cây cỏ ngày càng được nhiều người ưa chuộng bởi rất nhiều ưu điểm vừa đáp ứng được nhu cầu của người bệnh, vừa có tác dụng chữa bệnh tốt mà lại rẻ tiền, việc sử dụng tương đối dễ dàng và đặc biệt ít gây tác dụng phụ cho người sử dụng. Tuy nhiên, nguồn cây thuốc của Việt Nam nói chung và ở xã Đứa Mòn huyện Sông Mã tỉnh Sơn La nói riêng đang bị cạn kiệt dần do tập quán phá rừng đốt nương làm rẫy,  khai thác cây thuốc bừa bãi…. phục vụ kinh tế dân sinh nên nhiều loài thực vật dùng làm thuốc được mệnh danh là “vàng xanh” này bị giảm sút nhanh chóng,  nhiều loài đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.Thực tế cho thấy tính độc đáo trong việc sử dụng cây thuốc  thể hiện ở kinh nghiệm của từng cá nhân hay của mỗi cộng đồng dân tộc đặc biệt là dân tộc H’Mông đã đang sở hữu một kho tri thức bản địa lâu đời về các bài thuốc nam. Hàng trăm, hàng nghìn bài thuốc được lưu truyền lại qua nhiều thế hệ bằng cách ghi chép, truyền khẩu. Tuy nhiên hiện nay những kinh nghiệm quý báu đó đang dần bị mai một khi lớp người già về thế giới bên kia. Sưu tầm và lưu giữ các tri thức bản địa truyền thống trong việc sử dụng, phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc được mệnh danh là “vàng xanh” này và bổ sung những tư liệu quý vào kho tàng y học cổ truyền Việt Nam là việc làm rất cần thiết.

Qua khảo sát, chúng tôi đã xác định được 85 loài thuộc 81 chi được xếp trong 54 họ thuộc 3 ngành: Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta), Ngành thông đất (Lycopodiophyta), Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta). Trong đó ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) chiếm ưu thế là 77 loài chiếm 90,6%, 47 họ (87,04%), 73 chi (chiếm 90,12%) so với tổng số loài đã xác định được.

Họ thực vật có nhiều loài nhất là 3 họ như: Cúc (Asteraceae), Họ Hòa thảo  (Poaceae), Họ gừng (Zingiberales) với 3 họ đều có 4 loài chiếm 5,19% so với tổng số loài các họ còn lại có chiếm từ 1 – 2 loài.

Chi tập trung nhiều loài nhất là Chi Curcuma (thuộc họ Gừng  Zingiberales), Chi Dioscorea (thuộc họ Củ nâu Dioscoreaceae), Chi Kalanchoe (Thuộc họ Thuốc bỏng Crassulaceae), Chi Rosa (thuộc họ Hoa hồng Rosaceae).

Đa dạng về thân: Nhóm cây được sử dụng nhiều nhất là cây thân thảo 25 loài, chiếm 29,41% tiếp đến là nhóm cây thân leo có 18 loài, chiếm 21,18%. Nhóm thân còn lại như: Thân gỗ, thân bụi, thân rễ và thân bò, cũng được sử dụng nhưng ít hơn.

Bộ phận sử dụng chủ yếu chủ yếu là lá 45 loài chiếm 52,94% so với tổng số các bộ phận sử dụng. Sử dụng bộ phận rễ 23 loài chiếm 27,05%. Còn lại các bộ phận như: Vỏ, cả cây, củ, quả, hoa, hạt, thân, nhựa và bẹ chiếm ít hơn.

Đã điều tra được 14 nhóm bệnh. Các loài cây tập trung chủ yếu trong bài thuốc về nhóm bệnh tiêu hóa và giải độc cao nhất 22 loài chiếm 58,88% so với tống số loài cây thuốc, tiếp theo là nhóm bài thuốc sinh sản và bồi bổ sức khỏe là 21 loài chiếm 24,7%. Có 29 bài về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc chữa bệnh phổ biến của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Đứa Mòn, đa phần các bài thuốc đều là dùng đơn độc chỉ có một số bài là dùng kết hợp như: Bài thuốc bồi bổ sức khỏe, đau dạ dày, bài thuốc chữa vô sinh...

Môi trường sống của cây thuốc chủ yếu là ở rừng già, rừng tái sinh, với số lượng lớn 46 loài (54,11%) so với tổng số loài. Tiếp theo là loài sống ở môi trường nương rẫy là 31 loài (chiếm 36,47%). Môi trường sống trên vườn nhà có số loài bắt gặp là 22 loài chiếm 25,88% và ven đường, quanh nhà bản 16 loài chiếm 18,82%. Kết quả cho thấy môi trường sống của các loài cây thuốc tương đối phong phú và đa dạng, một loài có thể sống ở 2-3 môi trường sống khác nhau.

Có 6 loài cây thuốc có nguy cơ cạn kiệt  trong đó có 5 loài cây thuốc ở thứ hạng VU (sắp nguy cấp) và 1 loài ở thứ hạng EN (nguy cấp) trong Sách đỏ Việt Nam (2007).

Ảnh 1: TS.Vũ Thị Liên hướng dẫn sinh viên nghiên cứu cùng người dân khảo sát cây thuốc tại rừng thuộc xã Đứa Mòn.

Ảnh 2: Cây Bách bộ lá nhỏ (Stemona pierrei Gagnep) tại rừng thuộc xã Đứa Mòn.

Ảnh 3: Cây Ngũ gia bì gai (Acanthopanax Trifoliatus (L) Voss). 

Ảnh 4: Sinh viên Vàng A Mẻ đang phỏng vấn người dân điều tra kinh nghiệm sử dụng các bài thuốc chữa bệnh.