07012025Thứ 3
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

NĂNG LỰC TỰ HỌC VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

     Tóm tắt: Trong thực tiễn dạy học cho thấy, tự học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình học tập. Học trên lớp chỉ có thời gian nhất định còn tự học là quá trình lâu dài, học suốt đời. Hiệu quả của quá trình tự học phụ thuộc vào ý chí, tố chất, động cơ và năng lực của người học. Vì vậy bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên (SV) là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với qua trình dạy học trong các trường chuyên nghiệp nói chung và Trường Đại học Tây Bắc nói riêng. Năng lực tự học chỉ được hình thành và phát triển nếu người học có ý chí, có động cơ, có năng lực và phải tự học theo phương pháp hợp lý, phù hợp với điều kiện hiện có.

     Từ khóa: Tự học, năng lực, biện pháp,  sinh viên, Đại học Tây Bắc.

     1. Đặt vấn đề

     Trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên là một công việc có vị trí cực kì quan trọng trong các nhà trường đại học. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi SV mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri thức khoa học về đời sống xã hội. Từ đó có được sự tự tin trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn diện của mình [1], [2].

     Vấn đề tự học, tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “Tập trung nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”.           

     Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Trong khuôn khổ báo cáo này chúng tôi muốn tập trung đề cập những vấn đề liên quan đến khái niệm tự học, nội dung hoạt động tự học, các hình thức dạy tự học, đặc biệt là quan tâm đến các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho SV. Để từ đó thúc đẩy quá trình rèn luyện kĩ năng tự học cho SV, góp phần vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.

     2. Nội dung

     2.1. Khái quát về năng lực tự học

     Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001: “Tự học là quá trình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành…” [3]. Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được hình thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả trong hoàn cảnh nhất định với cường độ học tập nhất định”. Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triển lãm, xem phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện, …. Tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao. 

     Năng lực tự học là năng lực hết sức quan trọng vì tự học là chìa khoá tiến vào thế kỉ XXI, một thế kỉ với quan niệm học suốt đời, xã hội học tập. Có năng lực tự học mới có thể học suốt đời được. Vì vậy, quan trọng nhất đối với học sinh là học cách học. Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương tự với chất lượng cao. Để rèn luyện năng lực tự học cho học sinh, trong quá trình dạy học, người giáo viên cần biết hướng dẫn và tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho học sinh hoạt động nhằm phát triển  năng lực tư duy, sự linh hoạt, sự sáng tạo cho người học.

     Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian không nhiều khi học ở nhà trường. Tự học giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả của sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn. Có phương pháp tự học tốt sẽ đem lại kết quả học tập cao hơn. Khi học sinh biết cách tự học, họ sẽ có ý thức và xây dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo [4].

     Tự học của học sinh còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Ngay từ khi còn học ở trường trung học phổ thông, nếu học sinh rèn luyện tốt năng lực tự học, có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên đến các bậc học cao hơn như đại học, cao đẳng,… học sinh sẽ dễ dàng thích ứng với phương pháp dạy học hiện nay.

     2.2. Nội dung của quá trình tự học

     Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho SV tự học như thế nào để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Ngoài việc tìm hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập của SV thì mỗi giáo viên rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội dung cơ bản, các phương cách tối ưu rèn luyện phương pháp tự học cho SV. Đặc biệt là việc nhận diện xem những phương pháp đó ngoài sự thích ứng chung cho mọi SV có đáp ứng được cho từng nhóm đối tượng trong những giai đoạn và điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong suốt quá trình đào tạo hay không. Việc tự học thường được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu, đó là:

     Tự học hoàn toàn: Là việc người học nghiên cứu, tìm tòi tài liệu từ mạng Internet và sách tham khảo. Tự học hoàn toàn có kết quả tích cực nhưng mất nhiều thời gian vì không có hệ thống và chiều sâu tư tưởng, rất ít kế thừa từ hiểu biết của người đi trước.

     Tự học có hướng dẫn: Là hình thức hoạt động tự lực của người học để chiếm lĩnh tri thức và hoàn thành kĩ năng tương ứng dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của giáo viên thông qua tài liệu tham khảo.

     Để việc tự học có hiệu quả cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của hoạt động tự học như: Nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng.

     Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung, thống nhất về cách thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác định như sau:

     Xây dựng động cơ học tập: Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắnlà việc cần làm đầu tiên.Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận.

     Xây dựng kế hoạch học tập: Để việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện của mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện trong kế hoạch.

     Tự mình nắm vững nội dung tri thức: Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bề vững không… tùy thuộc vào nội lực của chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động: Tiếp cận thông tin, xử lí thông tin, vận dụng tri thức, thông tin và trao đổi, phổ biến thông tin.

     Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập: Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên. Thông qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc phục hay phát huy.

     2.3. Thực trạng tự học của sinh viên Trường Đại học Tây Bắc hiện nay

     Hiện nay SV Trường Đại học Tây Bắc có khoảng 7.500 SV (hệ chính quy), trong đó đa phần các em SV là con em các dân tộc thiểu số như: Thái, Tày, Nùng, Khơ Mú, Dao, Mường, H.Mông, Dáy, Sán Chỉ, Sinh Mun, Hà Nhì, Kháng, Sila, Giấy, Lự, ...và 117 lưu sinh viên Lào.

     Qua thực tế quá trình dạy học chúng tôi có thể đưa ra nhận định chung như sau: Nhiều SV chưa dành thời gian cho việc tự học, chưa có ý thức tự giác và chưa có phương pháp tự học, còn có tâm lí chờ đợi vận may hoặc chờ giáo viên "mang kiến thức đến cho mình''. Có thể có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động tự học của SV như:

     - Chất lượng đầu vào của trường thấp, điều đó đồng nghĩa với việc nhận thức của SV còn thấp, thậm trí còn dưới mức trung bình.

     - Bản thân SV không có tố chất, chưa có động cơ, chưa có ý chí và chưa có kĩ năng tự học.

     - Giảng viên chưa thực sự chú trọng đến việc giao nội dung tự học cho SV, hoặc có giao nhưng chưa chú trọng đến khâu kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của SV.

     - Điều kiện vật chất và tinh thần. Do khá nhiều SV là con em nông dân các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vì vậy cuộc sống kinh tế của các em còn nhiều khó khăn, ngay từ nhỏ các em đã không có điều kiện học tập nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, cũng như hình thành ở các em tư tưởng ngại học, lười học vì rỗng kiến thức.

     - Môi trường sống hiện nay cũng gây ảnh hưởng lớn tới tinh thần và ý thức học tập của SV, nhiều SV đã dành phần lớn quỹ thời gian cho những hoạt động vui chơi như chơi game, tham gia các mạng xã hội, bán hàng đa cấp, sống thử....Vì vậy, việc sắp xếp thời gian cho học chính khóa còn khó chứ chưa nói đến việc tự học.

     - Đa phần các SV còn hạn chế, thụ động mặc dù khoa học, kĩ thuật phát triển thuận tiện cho các em tìm hiểu thông tin lĩnh hội các kiến thức khác. SV ít bày tỏ ý kiến của mình, ít được hoạt động. Do đó kiến thức SV lĩnh hội không sâu sắc, chắc chắn.

     2.4. Một số biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho sinh viên [5], [6], [7], [8], [9]

     Ngoài những nội dung và phương phápchung được trình bày ở trênmỗi môn học, mỗi đối tượng đều có những đặc thù riêng. Và với GV cũng vậy, cũng với những phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những thời điểm cũng có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học cụ thể cho từng lĩnh vực là công việc rất có ý nghĩa.

     Từ những đặc thù của sinh viên Trường Đại học Tây Bắc, qua nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực tế giảng dạy nhiều năm chúng tôi đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp dụng trong quá trình dạy tự học cho SV. Đó là:

     a. Dạy cách lập kế hoạch học tập

     Trên cơ sở đề cương môn học, GV cần hướng dẫn SV lập kế hoạch học tập sao cho kế hoạch đó phải ở trong khả năng thực hiện và phù hợp với điều kiện của cá nhân. Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi. Quán triệt để SV hiểu rõ mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu cụ thể và hoàn toàn phấn đấu thực hiện được. Trong đó có sự phân biệt rõ việc chính việc phụ, việc làm ngay và việc làm sau. Có như thế mới từng bước góp nhặt tri thức tích lũy kết quả học tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời gian cũng cần được đặt ra để không phải bị động trước khối lượng các môn học cũng như áp lực công việc.

     b. Dạy cách nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học.

     Nghe giảng và ghi chép là những kĩ năng mà ai cũng phải sử dụng trong quá trình học tập. Trình độ nghe và ghi chép của người học không giống nhau ở những môn học khác nhau. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Tuy nhiên đây là vấn đề mà xưa nay chưa có ai nghiên cứu. Mỗi người đều phải tự mình rèn luyện thói quen ghi chép để có thể có được những thông tin cần thiết về môn học. Điều quan trọng trước tiên là GV cần truyền đạt cho SV những nguyên tắc chính của hoạt động nghe – ghi chép. Các em thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều SV chỉ chờ GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học nếu ngược lại thì đành bỏ trống vở khiến tâm lí bị ức chế ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Thực tế đó đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng cao độ để có khả năng lĩnh hội vấn đề một cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn từ, sử dụng tốc độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính, các luận điểm quan trọng mà GV nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần là điều vô cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình học tập trên lớp, nếu có vấn đề nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào sâu kiến thức và tiết kiệm thời gian. Rất tiếc, trên thực tế đây là điểm yếu mà phần lớn SV không quan tâm rèn luyện để có được.

     Muốn tạo điều kiện cho SV nghe giảng và ghi chép tốt, GV cần lưu ý:

     - Nội dung bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những tình huống giả định yêu cầu SV suy nghĩ phản biện.

     - Các câu hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng, tập trung vào trọng tâm bài học như một cách phát tín hiệu cho SV xác định nội dung chính.

     -  Đưa vào bài giảng những tình huống lí thú, những mẫu chuyện sinh động lấy từ thực tế có liên quan trực tiếp đến đời sống hay lĩnh vực chuyên ngành của từng đối tượng SV để gây sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người học.

     - Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu cầu SV tự đặt ra những câu hỏi, tình huống sát với nội dung bài học để thay đổi không khí, tăng cường sự chú ý của cả lớp.

     - Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng cũng là điều có ý nghĩa thu hút sự chú ý của người học.

     Tất cả những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý của cả thầy và trò. Trong đó thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn tổ chức còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo cả trong lĩnh hội tri thức lẫn rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ. 

     c. Dạy cách học bài

     Vấn đề mấu chốt theo quan điểm của chúng tôi chính là dạy cách học bài. GV cần giới thiệu và hướng dẫn cho SV tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom. Tức là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên cạnh đó còn phải rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo để tìm ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học.

     Một trong những hình thức giúp SV làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội cho các em diễn ngôn trực tiếp. Từ cách lấy dẫn chứng để chứng minh một vấn đề, giải thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu, tổng thuật một sự kiện, một vấn đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến trước một hiện tượng. Thông qua đó người dạy cũng có thể nắm được mức độ nhận thức của SV để có sự bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất lượng giờ giảng luôn được cải thiện theo hướng tích cực.

     d. Dạy cách nghiên cứu

     Trước hết là dạy cách xác định đề tài, chủ đề nghiên cứu sao cho phù hợp với sở trường năng lực của mình và yêu cầu của chuyên ngành đào tạo. Tiếp đến là dạy cách lựa chọn và tập hợp, phân loại thông tin và cách xử lí thông tin trong khuôn khổ thời gian cho phép. Việc xác định nguồn tài liệu, điều tra, thực nghiệm cũng đòi hỏi mỗi người phấn đấu nắm bắt kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng hổi cũng là một thách thức lớn. Tài liệu sẽ lấy từ nguồn nào, giới hạn phạm vi bao nhiêu, cách viện dẫn những thông tin ra sao cho chính xác, trích dẫn những vấn đề điển hình nào cho có tính thuyết phục… là những vấn đề cần được hướng dẫn kĩ lưỡng chu đáo từ phía GV. Một đề cương nghiên cứu chuẩn mực, khoa học trong cấu trúc chung từ tổng quan của vấn đề nghiên cứu, các cấp độ nội dung cần triển khai và cách xác định phương pháp nghiên cứu phản ánh rất rõ năng lực của mỗi SV. Cần hình thành và rèn luyện cho các em sớm có được kĩ năng ấy. Ngoài ra, việc tự kiểm tra đánh giá kết quả nghiên cứu trên cơ sở tranh thủ ý kiến của bạn bè thầy cô cũng đem lại lợi ích thiết dụng cho người nghiên cứu, nhất là những SV bước đầu làm quen với khoa học.

     Bốn vấn đề cốt lõi nêu trên chỉ là những chỉ dẫn cần thiết, mang tính định hướng. Còn việc vận dụng ra sao còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Sự cố gắng đầy ý chí nghị lực của người học, sự mẫn cán tận tâm và chu toàn của người dạy cùng những điều kiện tiên quyết khác. Duy có một điều không cần bàn cãi là phương pháp dạy học ở bậc học đại học hiện nay không thể thiếu việc dạy cách học.

     3. Kết luận

     Hiện nay, trong các trường đại học, một bộ phận khá lớn SV còn thụ động trong việc tiếp nhận tri thức. Phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học luôn là bài toán khó cho không ít SV kể cả SV năm cuối. Thế nhưng vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác, do áp lực của khối lượng công việc mà một bộ phận lớn GV chưa thực sự quan tâm đến rèn luyện kĩ năng toàn diện cho SV trong đó kĩ năng tự học. Vì vậy, mỗi trường đại học cần đưa phương pháp tự học vào mục tiêu đào tạo. Bởi lẽ, nó không chỉ cần thiết cho SV khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi ra trường hòa nhập với xã hội, trong suốt cuộc đời. Khi tự học, mỗi SV hoàn toàn có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề nảy sinh trong học tập theo một phong cách riêng với những yêu cầu và điều kiện thích hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân SV nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân SV tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay cho mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của SV trên con đường học tập nghiên cứu không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ động, đối phó, chờ thời.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2014), Lý luận dạy học hiện đại –Cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.

2. Bernd Meier, Nguyễn văn Cường, Lý luận dạy học hiện đại – Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học. Postdam – Hà Nội 2009.

3. Bùi Hiền (2001), Từ điển giáo dục học, NXB Từ điển bách khoa.

4. Trần Bá Hoành, Tháng 7/1998, Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình dạy học giáo dục và đào tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục.

5. Lưu Xuân Mới, 2001, Phương pháp dạy học đại học, NXB Giáo dục.

6. Lê Đức Ngọc, Tháng 8/2004, Dạy cách học một trong những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đại học, Tạp chí Dạy và học ngày nay.

7. Vũ Văn Tảo, Tháng 4/2001, Học và dạy cách học, Tạp chí Tự học.

8. Thái Duy Tuyên, 2003, Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường Cao đẳng Đại học chuyên nghiệp, Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học viên Cao học, ĐH Huế.

9. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) (2002). Quá trình dạy  tự học, NXB Giáo dục.