Đã 41 năm trôi qua (30/4/1975-30/4/2016), sức sống bất diệt và ýnghĩa thời đại của bản anh hùng ca 30/4/1975 vẫn còn nguyên giá trị và trường tồn theo thời gian, trở thành mốc son chói lọi trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, đánh thức niềm tự hào, tự tôn dân tộc trong mỗi người dân. Nhân dịp này, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của sự kiện trọng đại này.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường, bất khuất với tinh thần thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, quân và dân ta đã hoàn thành thắng lợi vẻ vang cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kỳ, gian khổ, đồng thời mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân tộc và thời đại .
(Hình ảnh xe tăng tiến vào Dinh Độc lập ngày 30/4/1975, Nguồn: Internet)
Đặt dấu chấm hết cho một cuộc chiến phi nghĩa, hao người, tốn của và kéo dài nhất trong lịch sử nước Mỹ
Về mặt chi phí, đây có lẽ là cuộc chiến tốn kém và vô cùng lãng phí đối với nước Mỹ mà chỉ khi xa lầy trong cuộc chiến tưởng chừng như không có lối thóat mang tên Chiến tranh Việt Nam, người Mỹ mới nhận ra. Hoa Kỳ đã chi phí 676 tỷ đô la cho cuộc chiến (so với 341 tỉ trong Chiến tranh thế giới thứ hai và 54 tỉ trong chiến tranh Triều Tiên) và nếu tính cả chi phí gián tiếp thì lên tới 920 tỉ. Tham chiến tại Việt Nam, Đế quốc Mỹ đã huy động lúc cao nhất 55 vạn quân viễn chinh, lôi kéo 5 nước ở châu Á – Thái Bình Dương tham chiến với số quân lúc cao nhất là hơn 7 vạn người vào cuộc chiến, trực tiếp chiến đấu và làm nòng cốt cho hơn một triệu quân tay sai ở miền Nam. Chúng đã ném xuống đất nước nhỏ bé của chúng ta 7,8 triệu tấn bom đạn, một khối lượng bom đạn lớn hơn lượng bom đạn mà chúng đã sử dụng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào trước đó([1]).
Về mặt thời gian, đây là cuộc chiến kéo dài ngày nhất trong lịch sử nước Mỹ (kể từ khi lập quốc vào năm 1776) với hai mươi mốt năm (từ tháng 7-1954 đến 4-1975). Chiến tranh Việt Nam chứng kiến trí tuệ và ý chí của năm đời tổng thống Mỹ, từ D. D. Eisenhower, đến John K. Kennedy, Lyndon Johnson, Richard Nixon và cuối cùng là Gerald Ford đã nối chân nhau điều hành bốn chiến lược chiến tranh thực dân mới và chiến tranh xâm lược củaMỹ ở Việt Nam (từ chiến lược “Chiến tranh đơn phương” đến chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và cuối cùng là chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”([2]) . Quyết tâm của Mỹ là biến Việt Nam thành một trong những tiền đồn quan trọng nhằm ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ra toàn Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương. Nhưng ý nguyện đó của của nước Mỹ đã được đền đáp xứng đáng bằng một thất bại cay đắng do chính người Mỹ viết lên.
Đồng thời mở ra một trang sử mới cho lịch sử dân tộc và thời đại
Đối với thế giới: “Thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của CNXH, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên khắp trái đất đang đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và CNHX”([3]). Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh, Việt Nam đã ghi tên mình vào trang sử hào hùng giải trừ chủ nghĩa thực dân của nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hòa bình thế giới thế kỉ XX. Việt Nam đã trở thành tấm gương và niềm tự hào cho các quốc gia, dân tộc đang nỗ lực đấu tranh giành độc lập, tự do, tự chủ.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã hoàn thành vẻ vang sứ mạng lịch sử dân tộc đặt ra là hoàn thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, rửa sạch nỗi nhục và nỗi đau mất nước trong hơn một thế kỉ (từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858). Đồng thời mở ra kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam – Kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Có thể khẳng định, sự kiện lịch sử 30/4/1975 đã đi vào huyền thoại, trở thành bản anh hùng ca của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là sản phẩm của truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nước, anh dũng, kiên cường, bất khuất và trí tuệ Việt Nam, là sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Hòa chung trong không khí cả nước tưng bừng kỉ niệm 41 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975-30/4/2016), tập thể đội ngũ cán bộ, giảng viên và sinh viên Trường Đại học Tây Bắc đang ra sức học tập, rèn đức luyện tài với khẩu hiệu “Vững lý thuyết, giỏi thực hành, nhanh vào thực tiễn” , góp sức mình vào xây dựng Việt Nam thành một quốc gia giàu mạnh, văn minh để xứng đáng với công lao của thế hệ cha anh đi trước.
([1]) Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, GS. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, PGS Lê Mậu Hãn (chủ biên), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009, tr. 1094