07012025Thứ 3
Last updateThứ 2, 26 10 2020 11am

MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ (HTX) HƯỚNG ĐI PHÙ HỢP CHO PHÁT TRIỂN THỦY SẢN VÙNG HỒ THỦY ĐIỆN SƠN LA

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

     Bài viết này được thực hiện dựa trên  kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học do tỉnh Sơn La hỗ trợ “Nghiên cứu, đề xuất mô hình HTX thủy sản bền vững vùng Hồ thủy điện Sơn La”. Bài viết thảo luận xung quanh mô hình kinh tế tận dụng lợi thế mặt nước vùng hồ thủy điện Sơn La trong phát triển thủy sản, mô hình kinh tế hợp tác cụ thể là HTX của các hộ dân tham gia nuôi trồng thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập của hộ gia đình, thay đổi sinh kế, tận dụng lợi thế trong phát triển kinh tế. Từ mô hình HTX trong nuôi trồng thủy sản của vùng Hồ thủy điện Sơn La sẽ là bài học cho việc phát triển mô hình HTX trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh Sơn La.

     1.  Phát triển các hợp tác xã thủy sản tại Việt Nam, tỉnh Sơn La, sự cần thiết phát triển mô hình HTX thủy sản vùng hồ thủy điện Sơn La

     Hợp tác xã Nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân và những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật đề phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình của xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh doanh các ngành nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hợp tác xã Thuỷ sản là tổ chức kinh tế tự chủ của những người làm nghề khai thác, nuôi trồng thuỷ hải sản, hoạt động dịch vụ và sản xuất kinh doanh khác phục vụ cho khai thác, nuôi trồng thuỷ hải sản. Phát triển nông nghiệp nói chung, thủy sản nói riêng theo mô hình HTX là hướng đi đúng đang được Đảng và Nhà nước tích cực ủng hộ.

     1.1. Phát triển HTX thủy sản tại Việt Nam

     Đến cuối năm 2014 trong ngành nông nghiệp có 493 HTX thuỷ chiếm 5% tổng số các HTX trong ngành nông nghiệp. Với tổng số 76.285 xã viên (trong đó 105 HTX khai thác với số xã viên bình quân là 54 xã viên; 388 HTX nuôi trồng có số xã viên bình quân đạt 182 xã viên). Vốn điều lệ bình quân một hợp tác xã thủy sản đạt 2.168 triệu đồng.

     Việc phát triển các HTX thủy sản ở Việt Nam bước đầu đạt được những kết quả khả quan nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vì hầu hết quy mô còn nhỏ lẻ, chưa có tổ chức tín dụng cho nông dân, ngư dân vay vốn hỗ trợ sản xuất, khả năng bao tiêu sản xuất còn hạn chế. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm chủ yếu bán cho đầu nậu nên thường bị ép giá, phần đông HTX gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do thiếu vốn, không có điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng như : cơ sở chế biến, kho lạnh, cảng cá… để làm dịch vụ. Chính vì điều này khiến cho vai trò của HTX còn mờ nhạt.

     Theo đánh giá của TS Nguyễn Thị Thuý Anh, Viện trưởng Viện Phát triển kinh tế hợp tác, hiện sản xuất thuỷ sản cả nước nói chung đang gặp những khó khăn và bất lợi như : sản xuất đơn lẻ; chỉ quan tâm đến lợi nhuận nên có lúc, có nơi, có ngành phát triển quá “nóng”, thiếu quy hoạch; công tác quản lý các yếu tố đầu vào, thu mua, chế biến và tiêu thụ còn nhiều bất cập; hoạt động xúc tiến thương mại chưa đạt hiệu quả cao; người nông dân chưa tiếp cận được các chính sách của Nhà nước. Cũng giống như nghề nông, nghề thuỷ sản Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thiên nhiên, thời tiết, khí hậu, nếu không có sự hợp tác, giúp đỡ nhau thì hiệu quả rất thấp, nhiều việc không thể tự một hộ gia đình làm kinh tế thuỷ sản có thể thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế.

     Do đó, vấn đề hợp tác giữa kinh tế hộ thuỷ sản trong cả lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt trong tổ hợp tác, HTX là rất quan trọng. Thông qua con đường hợp tác, các hộ nuôi trồng thuỷ sản sẽ giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề con giống, thức ăn, phòng trừ dịch bệnh, tiêu thụ thuỷ sản. Ngoài sự trợ giúp của các đơn vị và ngành có liên quan , HTX cũng có thể huy động vốn góp của xã viên, thành viên để đầu tư sản xuất thức ăn, cá giống cung cấp cho hộ, hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng và các hoạt động dịch vụ khác … đảm bảo sản xuất bền vững. Các hộ khai thác đánh bắt thuỷ sản trên biển cũng thông qua hình thức tổ hợp tác, HTX sẽ gắn kết được giữa các khâu đánh bắt, khai thác với chế biến và mở rộng dịch vụ hậu cần nghề cá, như đầu tư kho lạnh, xưởng nước đá, chế biến thuỷ sản, cung cấp xăng dầu, thiết bị khai thác và đặc biệt là tiêu thụ sản phẩm làm cho đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

     1.2. Phát triển hợp tác xã thủy sản tại Sơn La

     Sơn La là một tỉnh miền núi vì vậy trước đây việc phát triển thủy sản rất ít và chủ yếu là các gia đình nông dân tự nuôi tại ao nhà với diện tích và sản lượng rất thấp vì vậy đến năm 2011 Sơn La chưa hề có một HTX thủy sản nào hoạt động. Khi nhà máy thủy điện Sơn La được khánh thành năm 2012 đã tạo ra một diện tích mặt nước vùng lòng hồ thủy điện rất lớn tạo cơ hội lớn cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Vì vậy các HTX thủy sản cũng bắt đầu được hình thành, năm 2012 tại huyện Quỳnh Nhai đã thành lập 6 HTX thủy sản, năm 2013 tiếp tục thành lập them một HTX thủy sản nữa cũng tại huyện Quỳnh Nhai, nâng tổng số các HTX thủy sản tại Sơn La lên tổng số 7 HTX, trong đó có 5 HTX được hình thành do các nhóm hộ dân tại địa phương thành lập dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ về mặt thủ tục của Phòng Nông nghiệp huyện Quỳnh Nhai và Liên minh HTX tại Sơn La, có 2 HTX được hình thành từ cơ sở ban đầu là các doanh nghiệp tư nhân, tất cả đều tập trung tại huyện Quỳnh Nhai.

     Các HTX thủy sản tại Sơn La đều chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nuôi thủy sản nước ngọt và chưa có các hoạt động dịch vụ nào khác. Do mới hình thành, cơ sở vật chất và vốn hoạt động rất ít, hầu hết đều chưa có trụ sở riêng mà chủ yếu trụ sở làm việc được đặt ngay tại nhà của Chủ nhiệm HTX. Về hoạt động, hiện các HTX chủ yếu mới bắt đầu các hoạt động về xây dựng lồng và tiến hành nuôi cá chứ chưa có các hoạt động mang tính tổ chức hay giao dịch thị trường … Chính vì vậy để thúc đẩy các HTX này hoạt động hiệu quả và theo đúng luật mới thì rất cần sự hỗ trợ giúp đỡ của chính quyền địa phương cũng như các tổ chức khác.

     1.3. Sự cần thiết phải phát triển nuôi trồng thủy sản vùng Hồ thủy điện Sơn La theo hướng phát triển mô hình HTX

     Nhà máy thủy điện Sơn La đã chính thức hoàn thành vào năm 2012. Đóng góp hàng năm của Thủy điện Sơn La về sản lượng điện là hơn 10 tỷ kWh/năm, đóng góp cho ngân sách nhà nước các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu hơn 1.200 tỷ đồng hàng năm, riêng đóng góp cho Ngân sách nhà nước tỉnh Sơn La năm 2012 là gần 1.000 tỷ đồng. Thủy điện Sơn La đi vào hoạt động ngoài việc tạo thêm đóng góp cho ngân sách của tỉnh, Hồ chứa thủy điện Sơn La tại tỉnh Tỉnh Sơn La với diện tích mặt hồ hơn 200km2, chiều dài 107km, tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh Sơn La cải tạo thổ nhưỡng, cải tạo khí hậu tiểu vùng, thuận lợi trong công tác quy hoạch nông nghiệp gắn với thủy lợi, phát triển lúa nước, phát triển mạnh cây ăn trái, cây công nghiệp,.... Hơn thế hồ chứa thủy điện Sơn La tạo ra môi trường cho phát triển nghề đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, mở ra cơ hội việc làm và thu nhập cao cho người dân xung quanh vùng hồ chứa.

     Đi cùng với việc xây dựng, đưa thủy điện Sơn La vào hoạt động tỉnh Sơn La đã phải di chuyển cho 12.584 hộ dân với gần 6 vạn khẩu của 168 bản, 16 xã thuộc 3 huyện Mường La, Thuận Châu và Quỳnh Nhai, các huyên này này trong vùng ngập với diện tích lên tới 16.000ha . Bà con di dân phần lớn là dân tộc Thái, cuộc số của họ trước di cư là sống chủ yếu bằng nghề trông lúa nước, khai thác lâm sản,.. Nhường đất làm thủy điện là họ phải rời bỏ quê hương, chỗ ở lâu đời, kế sinh nhai truyền thống để đến với vùng đất mới, làm quen với những tập quán canh tác mới, phải thay đổi cả kế sinh nhai. Vấn đề cần đặt ra là phải giải quyết tốt sinh kế bền vững cho người dân tái định cư, có thể mới giải quyết được vấn đề an sinh xã hội cho người dân tái định cư.

     Theo số liệu thống kê đối với các xã di dân tái định cư tại chỗ có trên 90% diện tích đất trồng lúa nước của xã bị ngập, đất nương, đồi không có nhiều và ngày càng bạc mầu, chăn nuôi đại gia súc khó thực hiện vì việc chuyển đổi tập quán chăn thả sang chăn dắt là chuyện không phải một sớm một chiều. Vì vậy, mà đời sống của họ trước di dân đã chẳng dễ dàng gì nay ngày càng khó khăn. Trong khi đó, mặt hồ thủy điện Sơn La đang là tiềm năng tự nhiên cần được quan tâm khai thác để nâng cao đời sống của người dân sống quanh khu vực lòng hồ Thủy điện Sơn La, đặc biệt để nâng cao đời sống của bà con sau di dân tái định cư đang sống quanh vùng hồ chứa này.

     Việc sử dụng hồ chứa thủy điện trong nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Sơn La đã được chính quyền địa phương quan tâm định hướng, huyện Mường La trong báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện từ 2011-2015 đã khẳng định “đến 2015 phát triển mạnh việc nuôi cá lồng trên lòng hồ thuỷ điện. Khai thác và sử dụng có hiệu quả trên 3.000 ha mặt nước lòng hồ thuỷ điện; sản lượng cá đạt 1.500 tấn”; huyện Quỳnh Nhai đã khẳng định ngay trong Nghị quyết đại hội Đảng huyện lần thứ XX (nhiệm kỳ 2015-2020) một trong 5 lĩnh vực phát triển nông nghiệp của huyện thời gian tới là phát triển thủy sản vùng hồ thủy điện Sơn La. Huyện Quỳnh Nhai quan tâm rất lớn đến việc phát triển thủy sản vùng hồ thủy Điện sử dụng tổ chức là các hợp tác xã và tính đến tháng 8 năm 2015 trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai đã có 11 hợp tác xã nuôi trồng thủy sản.

     Trong thời gian gần đây, Viện Khuyến nông Việt Nam đã tổ chức một số khóa tập huấn nuôi cá lồng cho đồng bào dân tộc một số xã quanh khu vực lòng hồ, phòng Nông nghiệp của các huyện đã thực hiện chính sách hỗ trợ ban đầu cho các nhóm hộ gia đình nuôi cá lồng (Mường La),  ... nhưng tất cả các hoạt động kinh tế này hiện tại đều mang tính tự phát, không mang tính bền vững, cuộc sống của họ tiếp tục bị ảnh hưởng bởi nguyên lý được mùa, mất giá, áp lực đầu ra,… Bên cạnh việc nuôi trồng tự phát như trên tại huyện Quỳnh Nhai đã có 8 hợp tác xã nuôi trồng thủy sản, thực chất thì có 2 hợp tác xã hoạt động theo mô hình hợp tác xã nhưng vẫn chỉ do chủ nhiệm hợp tác xã là người có toàn quyền trong phát triển hợp tác xã. Còn 6 hợp tác xã còn lại được sự hỗ trợ của huyện trong quá trình thành lập và hoạt động ban đầu nhưng mới chỉ hoạt động được chỉ 1 đến 2 năm và nếu thời gian tới huyện không thể hỗ trợ như thời gian vừa quan thì hoạt động của các hợp tác xã này sẽ đi đến đâu là vấn đề cần phải quan tâm.

     Chính vì những thực tế trên cần thiết phải có nghiên cứu đề xuất các chính sách củng cố và phát triển bền vững các hợp tác xã nuôi trồng thuỷ sản góp phần tiêu thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh nghề cá vùng lòng hồ thuỷ điện Sơn La từ đó mới có căn cứ khoa học và thực tiễn đề xuất chính sách kinh tế hỗ trợ sự phát triển của hợp tác xã nuôi trông thủy sản vùng hồ thủy điện Sơn La.

     2. Đánh giá thực trạng phát triển mô hình HTX Thủy sản vùng Hồ thủy điện Sơn La

     * Thực trạng phát triển

     -  Về số lượng

     Đến đầu năm 2015, vùng hồ thủy điện Sơn La tỉnh Sơn La có 2 huyện có phát triển mô hình HTX có tham gia nuôi trồng thủy sản trong đó huyện Quỳnh Nhai là 11 HTX, huyện Mường La là 1 HTX. Các HTX này chủ yếu thành lập sau năm 2010, trong đó có 7 HTX lĩnh vực thủy sản. Nhìn chung  HTX phát triển ổn định theo chiều hướng tăng. Tỷ lệ hộ nông dân tham gia HTX thủy sản khoảng 95%.

     - Về chất lượng hoạt động của HTX

     + Một số HTX được thành lập từ 100% thành viên là hộ nông dân, họ đã cố gắng tích cực để chuyển đổi phương thức sản xuất để phù hợp với hiện tại, tạo điều kiện thay đổi thu nhập cho hộ gia đình cũng như phương thức sản xuất truyền thống.

     + Đội ngũ lãnh đạo của các HTX tích cực trong công tác quản lý, …

     + HTX đã tích cực học tập nâng cao chất lượng, hiệu quả khâu quản lý, tiếp thu chuyển giao kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu, hình thức quản ký, phát triển HTX;

     + HTX tích cực tận dụng sự hỗ trợ của chính quyền nhằm phát triển HTX;

     + Đội ngũ quản lý HTX đã nâng dần khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của HTX

     + Các HTX đã hoạt động bước đầu thể hiện sự vững mạnh, thu hút ngày càng tăng các hộ nông dân tham gia vào HTX.

     + Đội ngũ quản lý HTX cũng bước đầu biết ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành, quản lý thị trường trong hoạt động của HTX.

(Ảnh: Mô hình nuôi cá của gia đình ông Lò Văn Khặn, Giám đốc  HTX TS Chiềng Bằng)

     * Những hạn chế, khó khăn trong phát triển mô hình HTX nói chung, HTX thủy sản nói riêng

     + Năng lực quản lý của Hội đồng quản trị và Giám đốc HTX còn hạn chế.

     Nhìn chung đội ngũ cán bộ HTX có tâm huyết và làm việc vì lợi ích của HTX và cộng đồng.  Tuy vậy, nhìn chung trình độ học vấn của cán bộ quản lý HTX còn thấp. Hiện nay 12 HTX thuộc vùng Hồ thủy điện Sơn La có tới tới 28% Chủ nhiệm HTX có trình độ văn hoá cấp 1; 37% cấp 2. Chủ nhiệm HTX có trình độ đại học mới chiếm tỉ lệ 12% tổng số; Kế toán 9%.

     Thù lao cán bộ quản lý thấp cũng là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác quản lý HTX. Nhiều HTX khó thu hút được cán bộ trẻ có năng lực, được đào tạo chuyên môn về làm việc cho HTX. 

     +  Hạn chế về vốn:

     Nhiều HTX quy mô thôn, bản hoặc 10-20 xã viên, vốn hoạt động của HTX chỉ có từ vài chục triệu đến 300-400 triệu đồng; không ít HTX không còn vốn để hoạt động. HTX chưa có tích lũy, nhiều HTX cũng chưa thực hiện được dịch vụ tín dụng nội bộ, chưa huy động được vốn từ chính các xã viên HTX. Trong điều kiện đó, HTX lại gặp khó khăn trong vay vốn tín dụng Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Thiếu vốn nên các HTX không thể phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ cho xã viên; bỏ qua các cơ hội kinh doanh và chưa thực hiện được các dự án đầu tư mới cũng như đầu tư chiều sâu để hiện đại hóa các hoạt động kinh doanh của mình.

     + Có sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, trình độ công nghệ thấp:

     Cơ sở vật chất của HTX nghèo nàn, các HTX chưa có trụ sở riêng mà phải mượn tạm phòng làm việc trong nhà riêng của cán bộ HTX. Các HTX thủy sản huyện Quỳnh Nhai chưa có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất mà chỉ được giao tạm thời diện tích mặt hồ để phục vụ nuôi trồng thủy sản.

     Số HTX có hoạt động bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa có. Việc ứng dụng khoa học công nghệ hầu như không có, kết quả phụthuộc nhiều lao động chân tay và theo kinh nghiệm, mang tính chất gia đình. Điều này dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém và giá thành cao, sức cạnh tranh thấp và thường khó đáp ứng được những hợp đồng lớn.

     + Thiếu các mối liên doanh, liên kết với các HTX khác, các loại hình tổ chức kinh tế khác và với các đơn vị nghiên cứu:

     Phần lớn các HTX chưa tạo được các mối liên doanh, liên kết với các đơn vị khác có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Đa số các HTX vẫn làm ăn khép kín không có sự hợp tác với bên ngoài.

     + Bộ máy quản lý HTX có sự tham gia của lãnh đạo các xã:

     Việc một số HTX thành lập mới với sự tham gia lãnh đạo điều hành của cán bộ xã nhằm giúp đỡ người dân với trình độ dân trí kém, khả năng quản lý kém là biện pháp hữu hiêu. Nhưng việc không tích cực đào tạo lãnh đạo của HTX sẽ trở thành rào cản đối với sự phát triển của thành viên là hộ nông dân tham gia HTX trở thành nhà quản lý HTX theo đúng mong muốn, định hướng của Nhà nước.

(Ảnh: Hội đồng quản trị HTX TS Hồ Quỳnh)

     3. Một số giải pháp trong phát triển mô hình HTX nông nghiệp nói chung, HTX thủy sản tại vùng hồ thủy điện Sơn La nói riêng

     Thứ nhất, Chính quyền địa phương cần xác định rõ phát triển nông nghiệp nói chung, thủy sản nói riêng cần phải theo mô hình HTX, có như vậy mới thay đổi được phương thức sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, … Đồng thời, mô hình HTX sẽ mang đến cho người nông dân, hộ gia đình được bình đẳng trong sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất, và thay đổi đời sống của họ.

     Thứ hai, Tỉnh Sơn La cần sớm thực hiện Đề án phát triển HTX đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt, từ đó sớm thực hiện hỗ trợ kịp thời cho sự phát triển các HTX, đặc biệt các HTX mới thành lập.

     Thứ ba, Chính quyền địa phương quan tâm đến việc vận động các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp nói chung, hộ gia đình tham gia nuôi thủy sản nói riêng tham gia thành lập HTX, trở thành thành viên của HTX

     Thứ tư,Chính quyền từ tỉnh, huyện, xã xây dựng kế hoạch hỗ trợ cho hoạt động của các HTX. Các hoạt động cần phải hỗ trợ như vốn, thủ tục thành lập HTX, đào tạo kiến thức cơ bản trong quản lý, điều hành, nuôi trồng thủy sản.

(Ảnh: Trường Đại học Tây Bắc, tổ chức khóa tập huấn cho cán bộ HTX huyện Quỳnh Nhai)

(Ảnh: Giảng viên Trường ĐH Tây Bắc hỗ trợ HĐQT các HTX TS sử dụng CNTT trong quản lý HTX)

     Thứ năm,Chính quyền địa phương tổ chức thường xuyên hoạt động tập huấn những vấn đề liên quan đến công tác quản lý, công tác điều hành HTX, …

     Thứ sáu, Hội đồng quản trị HTX, Giám đốc HTX phải tích cực tiếp nhận chuyên giao kỹ thuật, tích cực xúc tiến thu hút nguồn đầu tư cho HTX từ các nguồn, liên kết với các đơn vị trong phát triển HTX. HTX phải quan tâm đến công tác Marketing để phát triển thị trường sản phẩm do HTX sản xuất ra

(Ảnh: Trường Đại học Tây Bắc, UBND huyện Quỳnh Nhai và các HTX tổ chức Hội thảo nhằm phát triển mô hình HTX nuôi trồng thủy sản)

     Kết luận

     Mô hình HTX là hướng đi đúng cho phát triển nông nghiệp của Việt Nam, đồng thời đây là hướng đi đúng, hiệu quả cho sự phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp của tỉnh Sơn La. Bên cạnh những lợi thế của mô hình này, việc vận dụng mô hình này vào thực tế còn gặp nhiều khó khăn cần phải có sự hỗ trợ của chính quyền. Sự hỗ trợ của chính quyền cũng chỉ nên đứng lại ở việc hỗ trợ vay vốn giải quyết khó khăn về vốn, hỗ trợ bằng đào tạo cho đọi ngũ đứng đầu HTX nhằm thay đổi tư duy trong hoạt động sản xuất của người nông dân,… Và tỉnh Sơn La làm được điều này, chắc chắn hoạt động sản xuất nông nghiệp của tỉnh sẽ hiệu quả hơn, đời sống người dân sẽ ngày càng nâng cao hơn.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện Luật HTX năm 2003 tháng 3 năm 2010, Hà Nội.

2. Đảng Bộ tỉnh Sơn La (2010), Văn kiện đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010 - 2015), Tỉnh ủy Sơn La, Sơn La.

3. Đảng Bộ huyện Quỳnh Nhai (2015), Văn kiện đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Quỳnh Nhai lần thứ XX (nhiệm kỳ 2015 - 2020), huyện Quỳnh Nhai, Sơn La.

4 Liên Minh Hợp tác xã Việt Nam (2009), Mô hình kinh tế hợp tác xã CHLB Đức, Hà Nội;

5. Liên minh HTX tỉnh Sơn La (2015), Báo cáo hội nghị tổng kết năm 2014, tháng 3- 2015, Sơn La;