LỊCH PHÁP VÀ LỊCH VIỆT NAM

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

     Lịch vốn rất quen thuộc với đời sống con người, là phương tiện quan trọng để loài người quản lí thời gian và tổ chức cuộc sống. Lịch vốn là sản phẩm của tư duy khoa học ở trình độ cao. Hiếm có một sản phẩm khoa học nào lại gắn bó với cuộc sống thường nhật như Lịch. Nó quen thuộc tới mức mà hầu hết mọi người đều cho rằng lịch tự nhiên là vậy. Ngày – Tháng – Năm là dòng thời gian chảy vô biên và hiển nhiên. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến lịch pháp (phép làm lịch) lại không hề đơn giản. Đó là những lí do mà trong thực tế nhiều người có những nhận thức khá mơ hồ về lịch và phép làm lịch, hiểu sai về các loại lịch nước ta hiện nay đang sử dụng.

     1. Lịch và Lịch pháp

     Lịch là phương tiện giúp con người biết được thời gian, ngày tháng năm…Lịch là một thuật ngữ Hán – Việt. Theo tiếng Anh, lịch được viết Calendar. Gốc tiếng Latinh, lịch được viết là Calendarium có nghĩa là "Sổ nợ". Tại La Mã cổ xưa, người ta phải trả số phần trăm tiền nợ vào ngày đầu tiên trong tháng. Về sau thuật ngữ này chuyển nghĩa thành hệ thống tính thời gian theo chu kì của các hiện tượng thiên nhiên như chuyển động của các tinh tú, Trái Đất quay quanh Mặt Trời, của Măt Trăng quay quanh Trái Đất và được gọi chung là Lịch.

     Lịch là hệ thống các phương pháp tính thời gian theo những đơn vị nhất định như ngày, tuần lễ, tháng, mùa, năm, thập kỉ, thế kỉ…theo một quy tắc nhất định, dựa vào các chu kì quay (nhất là chuyển động biểu kiến) của Mặt Trời, Trái Đất, Mặt Trăng trên bầu trời mà chúng ta có thể quan sát được. Do nhu cầu của sản xuất (trước hết là chăn nuôi và trồng trọt) mà con người đã sáng tạo ra lịch.

     Trong lịch sử phát triển các dân tộc, khu vực khác nhau đã sáng tạo ra rất nhiều phép làm lịch và hệ thống lịch khác nhau. Sự khác nhau về lịch và phép làm lịch một mặt là do các quy luật thiên văn học, mặt khác là do những đặc điểm lịch sử cụ thể của các dân tộc quy định.

     2. Ba đơn vị thời gian để làm lịch

     Để làm lịch, con người đã lấy ba đơn vị thời gian quan trọng nhất của thiên văn học để làm lịch đó là: ngày mặt trời, tuần trăng và năm mặt trời. Ngoài ra còn có lịch làm theo năm vũ trụ.

     - Ngày mặt trời là chu kì luân chuyển ngày – đêm được sinh ra do hệ quả của việc Trái Đất tự quay quanh trục nó và được Mặt Trời chiếu sáng. Thời gian trung bình của ngày mặt trời là 24 giờ. Trải qua quá trình quan sát, đo đạc tỉ mỉ, con người phát hiện ra có hai mốc thời gian có ngày và đêm dài bằng nhau. Sau này được gọi là ngày Xuân phân và Thu Phân. Lại có hai mốc thời gian khác, một mốc có ngày dài nhất, sau này được gọi là ngày Hạ Chí, và một ngày có đêm dài nhất, được gọi là ngày Đông Chí. Bốn mốc thời gian quan trọng trên giúp con người hiểu về sự tuần hoàn của thời tiết trong một năm, tạo cơ sở cho việc tính toán để làm lịch.

     - Tuần trăng. Mặt Trăng quan quanh Trái đất một vòng theo một quỹ đạo khá ổn định (gọi là Bạch Đạo), có chu kì giao hội với độ dài là khoảng 29,5 ngày (ngày nay tính chính xác là 29,530588 ngày). Trong một tuần trăng, lần lượt có ngày Sóc và ngày Vọng. Ngày Sóc là ngày không Trăng (do mặt Trăng ở giữa Trái Đất và Mặt Trời trên cùng một đường thẳng. Mặt tối của trăng quay về phía Trái Đất, phía được Mặt Trời chiếu sáng hoàn toàn khuất con người không nhìn thấy được từ Trái Đất). Ngày Vọng tức là ngày Trăng tròn nhất trong tháng (Do Trái Đất ở giữa Mặt Trời và Mặt Trăng, mặt sáng của Mặt Trăng quay về phía Trái Đất được trông thấy toàn bộ, chiếu sáng xuống mặt tối của Trái Đất). Xem kẽ có ngày Trăng Thượng huyền và Hạ huyền (những ngày chỉ nhìn thấy một nửa của Mặt Trăng sáng, quay xuống hoặc quay lên (Mặt Trăng đứng vuông góc với Trái Đất)

     - Năm Mặt Trời là chu kì luân chuyển bốn mùa trong một năm. Hiện tượng này là do Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời trên một quỹ đạo ổn định gọi là Hoàng đạo. Nhưng trục Trái Đất lại nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo (Hoàng đạo) một góc không đổi 23,40.. Mặt Trời chiếu sáng xuống mỗi điểm trên Trái Đất không thường xuyên như nhau trong cùng một năm. Qua quan sát và tính toán, con người biết được hai ngày Xuân phân và Thu phân cách nhau khoảng 180 ngày đêm. Ngày Hạ chí và Đông chí cách nhau khoảng 180 ngày đêm. Bốn mốc thời gian trên là tiền đề cho sự hiểu biết về một năm tuần hoàn của thời tiết do tác động của Mặt Trời, là cơ sở để tính toán lịch pháp.

     Năm Mặt Trời là khoảng thời gian Trái Đất quay một vòng quanh Mặt Trời trên quỹ đạo và trải qua bốn mốc thời gian trên. Khoảng 2000 năm TCN, cư dân Ai Cập cổ đã xác định được độ dài của năm Mặt Trời là 165, 1/4 ngày. Trên cơ sở chia một ngày thành 100 khắc, người Trung Hoa đã tính toán từ điểm Xuân phân này đến điểm Xuân phân tiếp theo là 365 ngày 25 khắc. Những kết quả tính toán trên gần đúng với Thiên văn học hiện đại.

     Thiên văn học hiện đại tính toán năm Mặt Trời có độ dài trung bình là 365,2425 ngày (được làm tròn là 365,25 ngày). Ba đơn vị thời gian được dùng để làm lịch là ba chu kì chuyển động khác nhau của Trái Đất, Mặt Trăng tạo ra ngày, tháng, năm:

+ Chu kì quay của Trái Đất quanh trục mình hết một vòng tạo ra ngày – đêm (24 giờ)

+ Chu kì quay của Mặt Trăng quanh Trái đất một vòng tạo ra Tuần Trăng (tháng – 29,5 ngày)

+ Chu kì quay của Trái Đất quanh Mặt Trời một vòng tạo ra một năm (365,25 ngày).

     Trong các chu kì trên, chúng ta thấy Tuần Trăng, năm Mặt Trời có số lẻ ngày, lại không thông ước với nhau (không chia hết cho nhau, không phải là bội số của nhau). Tháng thì từ 29,5 ngày đến 30 ngày, năm thì từ 355 ngày đến 365,  1/4 ngày. Đó là khó khăn lớn nhất đối với các nhà làm lịch. Người ta chỉ có thể tính được thông số phù hợp: ngày và chu kì Trăng tròn để tạo ra lịch Mặt Trăng (tức Âm lịch) hoặc ngày và chu kì thời tiết để tạo nên lịch Mặt Trời (tức Dương lịch). Đó là lí do sinh ra các loại lịch khác nhau trong lịch sử.

     Do khả năng tính toán ngày càng chính xác hơn những con số của các chu kì chuyển động nói trên và tìm cách tính toán xấp xỉ một cách tốt nhất, các loại Âm lịch hướng tới xấp xỉ Tuần Trăng, Dương lịch xấp xỉ với năm Mặt Trời, cố gắng xếp cả hai loại lịch trên hợp với nhau tạo ra loại Âm – Dương lịch (lịch truyền thống của Á Đông).

     3. Các loại lịch

     3.1. Âm lịch   

     Âm lịch còn được gọi là Lịch Mặt Trăng. Lấy cơ sở là vòng quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Mỗi tháng có số ngày xấp xỉ với tuần Trăng là 29,53 ngày. Tháng thiếu có 29 ngày, tháng đủ có 30 ngày. Một năm Âm lịch có 12 tháng. Theo đó một năm Âm lịch có 29,530588 ngày x 12  = 354,36706 ngày. Để dễ tính toán, con người quy định năm thường Âm lịch có 353 ngày, năm nhuận có 355 ngày. Có nhiều cách tính năm nhuận. Nhưng phổ biến có hai cách. Cách của người Thổ Nhĩ Kì tính cứ 8 năm thì có 3 năm nhuận vào năm thứ 2, 5 và 7. Cách tính thứ hai của người Ả Rập, trong 33 năm có 11 năm nhuận, vào các năm: 2, 5, 7, 10, 13, 16, 18, 21, 24, 26 và 29. Trong thực tế, có rất nhiều loại Âm lịch khác nhau, chủ yếu xuất hiện ở Bắc Phi và Tây Á.

     Ở khu vực Tây Á, Bắc Phi, do ở vĩ độ thấp, thời tiết ban ngày nóng lực, việc chăn nuôi những đàn gia súc lớn thường diễn ra vào ban đêm. Quan hàng vạn năm quan sát bầu trời đêm, cư dân ở đây đã có những hiểu biết sâu sắc về chu kì chuyển động của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Đó là cơ sở để cư dân sáng tạo nên Âm lịch. Ngày nay, con người đã biết đến những loại Âm lịch là Âm lịch Babilon cổ, Âm lịch Musulman (những nước theo Islam giáo sử dụng), Âm lịch Do Thái. Ngoài ra ở các nước phương Đông khác, trong đó có Việt Nam cũng thấy những dấu vết của Âm lịch cổ.

     3.2. Dương lịch. Dương lịch lấy vòng quay của Trái Đất quanh Mặt Trời để tính toán phép làm lịch. Khoảng 3000 năm TCN, người Ai Cập quan sát thấy vào mùa hè khi Mặt Trời mọc gần sao Thiên Lang (Sirius) thì đỉnh lũ ở sông Nil dâng cao nhất. Do nhu cầu của sản xuất, họ phải tính toán làm nông nghiệp đúng thời vụ. Qua nghiên cứu thiên văn, họ tính ra một năm có 360 ngày, chia làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Các tháng được đặt tên theo các vị thần. Bằng quan sát và tính toán họ nhận thấy năm Mặt Trời đúng ra khoảng 365 ngày. Để khỏi phải thay đổi lịch, họ thêm 5 ngày vào cuối năm, coi đó là ngày của các vị thần.

     Tuy nhiên so với năm Mặt Trời, lịch này mỗi năm thiếu mất 1/4  ngày, 4 năm hụt mất 1 ngày, 120 năm hụt mất 1 tháng. Về sau người Ai Cập đã nhận thấy sự thiếu chính xác này. Thế kỉ III TCN, vua Ptoléméc III đã kí một đạo luật ngày 7/3/283 TCN, quy định cứ 4 năm có một năm nhuận để điều chỉnh lịch cho đúng.

     Dương lịch cũng xuất hiện nhiều nơi, nhiều vùng đất trên thế giới và ngày nay Dương lịch được dùng phổ biến, thống nhất trên toàn thế giới có nguồn gốc từ lịch cổ của người La Mã.

     Giữa thế kỉ VIII TCN, thời Romulus, người La Mã dùng loại lịch một năm có 304 ngày, chia làm 10 tháng, tên các tháng gọi theo các vị thần. Thế kỉ VII TCN, Hoàng đế Numa Pompilius cải cách lịch, thêm vào 2 tháng, một năm có 355 ngày. Sau này họ thấy lịch này ngắn hơn một năm Mặt Trời 10 ngày, nên quyết định cứ hai năm có 1 năm nhuận.

     Năm 63 TCN, Julius César (100 – 44 TCN) lên ngôi Hoàng đế. Ông cho cải cách lại lịch. Lịch mới hoàn thành năm 46 TCN mang tên Julius. Lịch này lấy năm trung bình là 365,25 ngày với quy ước năm nào chia hết cho 4 thì là năm nhuận, tháng lẻ có 31 ngày, tháng chẵn có 30 ngày, tháng 2 có 28 ngày (năm không nhuận).

     Năm 1324, nhà bác học Nikiphor Grigor đã phát hiện ra chu kì 365,25 ngày không thật chính xác. Đến cuối thế kì XVI, lịch Julius đã chậm mất 10 ngày làm sai lệch thời vụ, mùa màng. Năm 1582, Giáo hoàng Gregorius đã lập một Hội đồng Lịch pháp để nghiên cứu việc sửa đổi lịch. Lịch mới gọi là Lịch Gregorius. Lịch này lấy năm trung bình là 365,2425 ngày. Lệ 4 năm có một năm nhuận vẫn giữ nguyên nhưng bổ sung nguyên tắc như sau, nếu năm cuối của mỗi thế kỉ không chia hết cho 400 thì năm ấy không nhuận (ví dụ như năm 1700, 1800, 1900). Nhờ vậy chỉ 300 năm lịch mới bị sai lệch 1 ngày. Để sửa sai lệch 10 ngày, lịch mới đã chuyển ngày thứ Năm 4/10/1582 thành 15/10/1582. Thế là trong lịch sử, tháng 10 năm 1582 chỉ có 20 ngày.

     Ngày nay, con người đã biết đến rất nhiều loại Dương lịch với những cách tính toán khác nhau. Trong đó có Dương lịch Ai Cập cổ, Dương lịch Maya cổ (được đánh giá là rất chính xác so với thiên văn học hiện đại), Dương lịch Iran cổ, Dương lịch Ấn Độ cổ, Dương lịch Cộng hòa Pháp. Trong số đó Công lịch. Sau nhiều lần cải cách, cùng với sự phổ biến của Thiên Chúa giáo trên toàn cầu, Công lịch được sử dụng thống nhất trên toàn thế giới hiện nay. Điều đáng lưu ý là, cũng như nhiều lĩch vực khoa học khác, Thiên văn và Lịch pháp của Hy Lạp và La Mã có ảnh hưởng và tiếp thu nhiều từ các nền văn minh phương Đông cổ đại.

     3.3. Âm - Dương lịch

     Âm – Dương lịch là sự kết hợp giữa lịch Mặt Trăng và lịch Mặt Trời. Năm Âm lịch so với năm mặt trời thường hụt mất 10, 11, 12 ngày, dẫn đến những sai lệch với thời tiết và mùa vụ trong năm. Để khắc phục nhược điểm này, người ta đã tạo ra loại lịch gọi là Âm – Dương lịch. Lịch này lấy cốt lõi là Âm lịch, nghĩa là chọn số ngày, tháng xấp xỉ tuần Trăng, nhưng để mùa màng phù hợp với thời tiết, người ta phải đưa thêm yếu tố Dương lịch vào và chọn số tháng để xấp xỉ với năm Mặt Trời, như vậy người ta phải đặt ra tháng nhuận. Năm thường có 12 tháng, năm nhuận có 13 tháng.

     Để tính các chu kì nhuận tốt nhất, người ta làm phép tính sau:

     Kết quả trên có nghĩa là một năm cần có 12 tuần Trăng và số lẻ tháng.

     Để xác định năm nhuận, chúng ta có các phân số xấp xỉ sau:

     Có hai chu kì đã được dùng trong lịch sử.

     Chu kì tức là cứ 8 năm thì có 3 năm nhuận 13 tháng. Hoặc chu kì  tức là 19 năm thì có 7 năm nhuận 13 tháng. Âm – Dương lịch đã xuất hiện và được sử dụng ở rất nhiều nơi từ phương Đông, phương Tây cổ đại.

     Ngày nay, chúng ta biết đến rất nhiều loại Âm – Dương lịch khác nhau: Âm – Dương lịch Ai Cập cổ, Âm – Dương lịch Hy Lạp cổ, Âm – Dương lịch Do Thái, Âm – Dương lịch Trung Quốc. Trong đó, đặc biệt là Âm – Dương lịch Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc tới lịch và phép làm lịch của các nước phương Đông khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều tiên...

     3.4. Lịch Can Chi

     Một số nước phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc dùng hệ Can Chi để xác định thời gian theo một chu kì chặt chẽ. Loại lịch này được gọi chung là lịch Can Chi. Lịch Can Chi lấy hệ đếm 60 làm cơ sở cùng với những chu kì nhỏ hơn lấy ước số của 60 làm cơ sở là 10 và 12.

Về quá trình xuất hiện của lịch Can Chi, có thuyết cho rằng lịch này xuất hiện vào thời nhà Thương bên Trung Quốc (khoảng thế kỉ XVI TCN). Những dấu vết còn lại trên xương thú, mai rùa (văn tự giáp cốt). Trước thời Đông Hán (khoảng năm 103 TCN) chỉ dùng Can Chi để nghi ngày. Sau thời Kiến Vũ (25 – 40), mới bắt đầu dùng Can Chi để ghi cả năm, tháng, ngày, giờ. Lịch Can Chi gọi đầy đủ là Thiên Can, Địa Chi.

     Thiên Can quan hệ mật thiết với Ngũ Hành (5) và Âm Dương (2) mà thành. Sự phối hợp giữa Ngũ Hành và Âm Dương hình thành nên Thiên Can. Theo đó, Thập Can là kết quả của 5 (Ngũ Hành) x 2 (Âm Dương) = 10. Thập Can có thứ tự như sau: 1) Giáp, 2) Ất, 3) Bính, 4) Đinh, 5) Mậu, 6) Kỉ, 7) Canh, 8 ) Tân, 9) Nhâm, 10) Quý. Các số lẻ là số thuộc Dương (gọi là số Cơ), gồm: 1) Giáp, 3) Bính, 5) Mậu, 7) Canh, 9) Nhâm. Còn các số chẵn là số thuộc Âm (còn gọi là số Ngẫu), gồm: 2) Ất, 4) Đinh, 6) Kỉ, 8 ) Tân, 10) Quý.

     Địa Chi có quan hệ với Lục khí (6 khí) và cũng lấy Âm Dương (2) phối hợp mà thành Thập nhị Chi (6 x 2 = 12). Có thứ tự cụ thể: 1) Tí, 2) Sửu, 3 Dần, 4) Mão, 5) Thìn, 6) Tị, 7) Ngọ, 8) Mùi, 9) Thân, 10) Dậu, 11) Tuất, 12) Hợi.

Hệ thống Can Chi

     Trật tự Can Chi trên là cố định không thay đổi. Ghép các cặp Can Chi với nhau (Theo nguyên lí Can chẵn đi với Chi chẵn, Can lẻ đi với Chi lẻ), tạo thành một vòng tuần hoàn gồm 60 cặp cố định có tên gọi khác nhau, không cặp nào trùng với cặp nào. Bắt đầu là Giáp Tí và kết thúc là Quý Hợi. Cách ghép Can Chi trong mỗi năm Âm lịch cũng như vậy. Mỗi năm mang tên một Can Chi, hết chu kì 60 năm lại trở về tên gọi ban đầu. Người ta gọi đó là Lục thập hoa giáp. Ví dụ Cách mạng tháng Tám thành công năm Ất Dậu (1945) thì 60 năm sau, năm 2005 lại là năm Ất Dậu.

Bảng Lục Thập Hoa Giáp

     4. Lịch Việt Nam

     Nằm trong khu vực Động Nam Á, Việt Nam là một trong những trung tâm của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Yêu cầu phát triển nông nghiệp vốn tuân thủ chặt chẽ tính thời vụ, trong một điều kiện khí hậu phức tạp, đa dạng giúp người Việt sớm có những kiến thức khá sâu sắc về thiên văn và phép làm lịch. Tuy nhiên những hạn chế bởi tư liệu thành văn, sự tàn phá của các thế lực ngoại bang đã hủy hoại những tư liệu đầy đủ về lịch của người Việt. Theo các nhà nghiên cứu, trên trống đồng Đông Sơn, giữa mặt trống là hình mặt trời tỏa sáng, mặt trống và tang trống có hoa văn chim bay, thú chạy đều ở trên những vành tròn, ngược chiều kim đồng hồ. Đó chính là hướng chuyển động của Mặt Trời, Trăng, Sao trên bầu trời. Bốn con cóc trên trống đồng nói lên bốn mùa trong năm, hoặc bốn cặp nam nữ đang giao cấu trên nắp thạp đồng Đào Thịnh với khổ người bằng nhau hoặc to nhỏ khác nhau, đó chính là biểu tượng của Âm – Dương – ngày đêm của các tiết Xuân phân, Thu phân (ngày đêm bằng nhau), ngày Hạ chí (ngày dài đêm ngắn) và Đông chí (ngày ngắn đềm dài).

     Đại Việt sử kí toàn thư còn trích lại từ bộ Tiền Hán thư dẫn ra bức thư của Hoài Nam Vương Lưu An gửi lên vua Hán (thế kỉ II TCN), có đoạn “Từ thời Tam đại thịnh trị, Đất Hồ đất Việt không theo lịch của Trung Quốc”. Điều đó cho thấy, từ rất sớm người Việt đã biết làm và sử dụng Dương lịch.

     Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết thổ dân ở huyện Bất Bạt và Mỹ Lương thuộc Hà Nội (Hà Tây cũ) hàng năm lấy tháng mười một làm tháng đầu năm (và tính theo Một, Chạp, Giêng, Hai...), trong tháng lấy ngày mùng 2 làm đầu tháng, gọi là tháng lùi, ngày tiến. Nhà sử học Nguyễn Lương Bích cho rằng đây chính là Âm lịch cổ của dân tộc ta.

     Từ khi giành lại nền độc lập tự chủ sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, cùng với sự tiếp thu Nho giáo và văn hóa Hán, các triều đại phong kiến Việt Nam thường học phép làm lịch Âm – Dương và lịch Can Chi của Trung Quốc. Tuy nhiên vì những lí do lịch sử khác nhau, có lúc lịch Việt Nam giống lịch Trung Quốc, có lúc lại khác. Từ năm 1967 Nhà nước ta ban hành Âm – Dương lịch, lấy theo múi giờ thứ 7 (Âm – Dương lịch Trung Quốc lấy theo múi giờ 8). Âm - Dương lịch này được dùng cho tới ngày nay.

     5. Một số vấn đề nhận thức về lịch

     Lịch pháp học là một ngành khoa học đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng giúp cho chúng ta ngày nay có nhận thức khá đầy đủ về lịch sử lịch pháp và phép làm lịch của nhiều dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống, mặc dù lịch được sử dụng phổ biến hàng ngày, hàng giờ nhưng vẫn còn những nhân thức khác nhau về lịch và lịch dùng ở Việt Nam.

     Thứ nhất, rất nhiều người cho rằng Dương lịch có nguồn gốc từ phương Tây, Âm lịch của nguồn gốc từ phương Đông. Điều này không có căn cứ khoa học thuyết phục. Cả Dương lịch, Âm lịch và Âm – Dương lịch đều đã xuất hiện rất sớm ở các nền văn minh phương Đông cổ đại. Sau này, do nhu cầu sản xuất, truyền thống văn hóa, mỗi dân tộc lựa chọn một loại hoặc một số loại lịch để sử dụng trong cuộc sống. Hàng ngàn năm sau, cư dân Hy Lạp  và La Mã cổ đại đã tiếp thu nhiều thành tựu thiên văn học của phương Đông trong đó có phép làm lịch. Họ soạn cả Dương lịch và Âm – Dương lịch. Năm 63 TCN, khi lên ngôi hoàng đế, Julius Cesar (100 – 44 TCN) đã cho mời nhà thiên văn học Ai Cập là Sosigènes tới để cải cách lịch. Từ đây, người La Mã lấy lịch Mặt Trời của người Ai Cập làm cơ sở soạn lịch cho mình. Sau nhiều lần cải cách, lịch Julius trở thành Công lịch và phổ biến trên toàn thế giới. Do vậy, dân ta quen gọi Dương lịch là Tây lịch, Âm – Dương lịch (mà thói quen gọi và hiểu nhầm là Âm lịch) là lịch Ta.

     Thứ hai, có nhiều người cho rằng lịch của người Việt là Âm lịch, hoặc sau nhiều lần cải cách từ Âm lịch đã trở thành Âm – Dương lịch. Điều này cũng không đúng. Chúng ta phải chấp nhận một thực tế rằng hầu hết người Việt đều nhầm lẫn cho rằng lịch chúng ta đang sử dụng song song với Dương lịch hiện nay là Âm lịch. Đây đơn giản là do thói quen sử dụng. Người Việt vốn trước chỉ biết lịch là lịch chứ không quan tâm đến đó là Âm hay Dương lịch. Nhưng từ khi Dương lịch du nhập vào Việt Nam, theo thói quen (đối lập với Dương là Âm) nên họ gọi lịch truyền thống ta sử dụng là Âm lịch. Xin lưu ý thêm một điểm nữa rằng, tuy Mặt trời là yếu tố cơ sở để tạo ra Dương lịch, Mặt Trăng là yếu tố cơ sở tạo nên Âm lịch, nhưng bản thân Mặt trời không phải là Dương mà chỉ là yếu tố thuộc Dương (theo thuyết Âm Dương) và ngược lại Mặt Trăng chỉ là một yếu tố thuộc Âm. Tuy nhiên, do vai trò của hai Thiên cầu này đối với sống con người nên chúng ta thường có thói quen gắn Dương với Mặt Trời và Âm với Mặt Trăng.

Tờ lịch Việt Nam

     Vốn là cư dân nông nghiệp, người Việt từ rất sớm đã soạn Âm – Dương lịch, đây là cơ sở để đảm bảo tính thời vụ. Điều này càng được khẳng định khi người Việt tiếp thu phép làm lịch của Trung Quốc, mà lịch của Trung Quốc là Âm – Dương lịch.

     Trong thực tiễn cuộc sống, chúng ta đang sử dụng đồng thời nhiều loại lịch: Dương lịch (dùng trong quản lí hành chính quốc gia), Âm – Dương lịch (dùng trong các hoạt động văn hóa truyền thống) và lịch Can Chi chủ yếu dùng trong các hoạt động mang nhiều yếu tố tâm linh của nhân dân. Ngoài ra chúng ta còn biết đến lịch Thiên văn...

     Lịch pháp học là một bộ môn khoa học rất lí thú. Lịch có mối quan hệ mật thiết với đời sống. Sự hiểu biết đầy đủ về lịch và phép làm lịch giúp cho chúng ta có thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn hơn. Do có những nhận thức khác nhau về lịch nên cần làm rõ một số cơ sở khoa học liên quan chứ không chỉ dựa trên thói quen. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì có thể chấp nhận sự tồn tại đồng thời hai loại kiến thức này trong lĩnh vực lịch pháp. Và điều này vẫn được các nhà làm lịch của Việt Nam chấp nhận. Còn rất nhiều điều thú vị về các tính thời gian, làm lịch, chúng tôi sẽ tiếp tục đi sâu ở những bài viết khác.

Tài liệu tham khảo

Thái Hoàng (2008), Lịch pháp học đại cương, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.