“DI CHÚC” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG DÒNG CHẢY LỊCH SỬ DÂN TỘC

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Đặt vấn đề

Đã gần năm mươi năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời xa cõi tạm. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho các thế hệ sau một bản Di chúc lịch sử bất hủ. Thực hiện Di chúc của Bác, chúng ta đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất non sông bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Rồi sau đó, cả dân tộc bước vào thời kỳ quá độ đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đến nay, trải qua hơn 40 năm cả nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và hơn ba mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có một diện mạo mới ngày càng văn minh, hiện đại, sánh vai cùng bạn bè 5 Châu.

di chuc HCM

(Nguồn ảnh: Internet)

Nội dung

Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc vào năm 1965, từ đó, Bản Di chúc được Người nhiều lần chỉnh sửa và hoàn thiện vào tháng 5 năm 1969. Ngày 9/9/1969, trong lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã xúc động công bố bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản Di chúc chính thức được công bố này chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó có một số đoạn được ghép nối từ các bản Di chúc mà Bác đã viết và sửa chữa, bổ sung hoặc thay thế vào năm 1968 và năm 1969.

Thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Di chúc, Mỹ đã liên tiếp tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Mức độ cuộc chiến diễn ra ngày càng khốc liệt, từ việc tăng cường hệ thống cố vấn Mỹ, viện trợ kỹ thuật, vũ khí, phương tiện chiến tranh, tiền bạc cho quân đội Sài Gòn, áp dụng phổ biến chiến thuật mới như “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, tiến hành dồn dân lập “ấp chiến lược”, đến leo thang đánh phá miền Bắc trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (từ 1964 và chính thức từ 1965- 1968) bằng không quân và hải quân, rồi trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước đồng minh tham chiến tại miền Nam cùng quân đội Sài Gòn, tổ chức các cuộc hành quân “tìm diệt” và bình định nhằm đánh bại lực lượng quân giải phóng.

Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng giúp cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta có một động lực tinh thần, niềm tin chắc chắn vào sự thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ: “CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người…”[1]. Nhưng “Dù khó khăn đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to – là Pháp và Mỹ…”[2].

Từ những chỉ dẫn của Người trong bản Di chúc, quân dân ta ở hai miền Nam Bắc đã đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với những thắng lợi giành được, nhất là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, đã buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Như vậy, tâm nguyện trong của Bác trong Di chúc “Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta”[3] đã trở thành hiện thực.

Sau Hiệp định Pari, tình hình chuyển biến ngày càng có lợi cho cách mạng. Vì vậy, từ cuối năm 1974 đến đầu năm 1975, Đảng ta đã liên tiếp triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng để đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976.

Thực hiện kế hoạch đề ra, quân dân ta đã phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 trong gần hai tháng (từ ngày 4/3/1975 đến 2/5/1975). Cuộc Tổng tiến công bắt đầu từ cuộc tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam qua chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ 21/3 đến 29/3/1975) và chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định (từ ngày 26/4 đến ngày 30/4/1975), kết thúc với việc lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy để tự giải phóng. Đến ngày 2/5/1975, khi tỉnh cuối cùng Châu Đốc được giải phóng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 thắng lợi hoàn toàn.

Với thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, chúng ta đã hoàn thành một trong những tâm nguyện quan trọng trong Di chúc của Bác là “Tổ quốc ta sẽ nhất định thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”[4]

Đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nhanh chóng hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước và bước sang giai đoạn lịch sử mới: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn mới, thực hiện mong muốn của Bác trong Di chúc: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,  dân chủ và giàu mạnh…”[5], chúng ta đã từng bước đạt được những thành tựu đáng khích lệ.

Trải qua hơn 40 năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ Đại hội VI (1986) đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu (90% dân số làm nông nghiệp), kém phát triển (có thu nhập bình quân đầu người dưới mức 100 USD vào những năm đầu đổi mới) đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn so với thời kỳ trước đổi mới (“tỷ lệ tăng trưởng bình quân 4 năm (2011 - 2014) đạt 5,82% cao hơn mức tăng trưởng bình quân của các ASEAN cùng thời kì”[6]); đến năm 2008, Việt Nam đã vượt qua ngưỡng thu nhập bình quân đầu người trên 1000 USD (giá thực tế), gia nhập vào hàng ngũ những nước có thu nhập trung bình thấp và đến năm 2014 là: 2.028 USD, năm 2018 ước đạt 2.540 USD. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh và cao, tổng sản phẩm quốc nội năm 2014 đạt khoảng 184 tỷ USD[7] và năm 2017 đã vượt 220 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt trên 420 tỷ USD[8].

Môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể, qua đó đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển. Tổng đầu tư xã hội cũng như tỷ trọng vốn đầu tư xã hội so với GDP tăng liên tục và duy trì ở mức cao (giai đoạn 2004 - 2009 lên đến hơn 40%), thuộc vào nhóm nước có mức đầu tư cao nhất thế giới[9].

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện theo pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả theo quy luật thị trường, đồng thời có sự quản lý và điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Việc tăng trưởng kinh tế đã gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và an sinh xã hội. Ngân sách nhà nước chi cho công tác an sinh xã hội giai đoạn 2011- 2013, ước đạt 913.400 tỷ đồng, chiếm khoảng 34,1%, tăng 1,7 lần so với giai đoạn 2006 -2010[10].

Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế; xây dựng hoàn thiện thể chế, tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

Như vậy, niềm mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Còn non, còn nước, còn người; Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”[11] đã thành hiện thực.

Kết luận

Thời gian ngày càng lùi xa, nhưng Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là nguồn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy truyền thống yêu nước, đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ văn minh.

 ___________________________________________

[1] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bản viết năm 1969

[2] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bản viết năm 1969

[3] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bản viết năm 1969

[4] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bản viết năm 1969

[5] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bản viết năm 1969

[6] Vương Đình Huệ, Những thành tựu nổi bật của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, Tạp chí Cộng sản, Số 872 (6-2015), tr. 29- tr.35. 

[7] Vương Đình Huệ, Những thành tựu nổi bật của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, Tạp chí Cộng sản, Số 872 (6-2015), tr.29- tr.35.  

[8] Nguyễn Xuân Thắng, Sức sống của học thuyết Mác, nền tảng lý luận của con đường phát triển Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Số 872 (6-2015), tr.3- tr.8.  

[9] Vương Đình Huệ, Những thành tựu nổi bật của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, Tạp chí Cộng sản, Số 872 (6-2015), tr.29- tr.35.  

[10] Vương Đình Huệ, Những thành tựu nổi bật của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, Tạp chí Cộng sản, Số 872 (6-2015), tr.29- tr.35.  

[11] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bản viết năm 1969