NHỮNG NÉT ĐẶC THÙ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KHU VỰC MIỀN NÚI

0
0
0
s2smodern
powered by social2s

Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được thành lập để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Để quản lí lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) được hiệu trưởng lựa chọn từ những giáo viên có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín trong học sinh, được Hội đồng giáo dục nhà trường nhất trí phân công chủ nhiệm các lớp học xác định để thực hiện mục tiêu giáo dục.

Xung quanh vấn đề công tác của người giáo viên chủ nhiệm đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến. Ở bài viết này, chúng tôi trình bày một số nét đặc thù trong hoạt động của người GVCN trung học phổ thông (THPT) khu vực miền núi, qua đó góp phần làm phong phú thêm lí luận về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông nói chung, trung học phổ thông khu vực miền núi nói riêng.

1. Giáo viên chủ nhiệm

Ở các trường phổ thông ở mỗi lớp học đều có một GVCN do hiệu trưởng phân công để quản lí và giáo dục học sinh trong lớp đó.

Các tài liệu hướng dẫn công tác của người GVCN đã quy định rất rõ về tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn... của người GVCN. Có thể khái quát như sau: GVCN là người thay mặt hiệu trưởng quản lí, giáo dục học sinh, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của lớp, phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm có hai chức năng cơ bản: vừa là nhà quản lí, vừa là nhà giáo dục.

2. Những nét đặc thù trong hoạt động của người giáo viên chủ nhiệm lớp trung học phổ thông khu vực miền núi

Hoạt động của GVCN THPT khu vực miền núi cũng có những đặc điểm giống như GVCN THPT miền xuôi. Song, ngoài những đặc điểm chung ấy, hoạt động của GVCN THPT miền núi có những nét đặc thù như sau:

Giáo viên chủ nhiệm trung học phổ thông miền núi phải hoạt động trên một địa bàn dân cư rộng. Ở các tỉnh miền núi hầu hết các xã đã có trường tiểu học, trung học cơ sở, nhưng THPT thường chỉ có một hoặc hai trường đặt ở các thị trấn, huyện lỵ, xa bản làng tới cả chục ki lô mét, để đến trường các em hàng ngày phải vượt qua khoảng cách khá xa, mà chủ yếu là đi bộ. Để khắc phục hoàn cảnh này, một số em xin trọ học ở nhà người quen, thuê nhà trọ, không có cha mẹ quản lí. Việc đi lại khó khăn, cộng thêm chi phí tốn kém, nhớ nhà, khiến nhiều học sinh nản chí, bỏ học.

Phần lớn đất đai là núi rừng, địa hình hiểm trở, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, khí hậu khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, lũ lụt, sạt lở đất thường xuyên, các địa phương bị chia cắt bởi suối sâu, đèo cao, đường xá, giao thông chưa hoàn chỉnh, đi lại rất khó khăn cho cả học sinh, thầy, cô giáo và nhân dân.

Mật độ dân số thấp, diện tích một xã, một huyện rộng hơn rất nhiều so với ở miền xuôi, thầy cô không thể thường xuyên về các địa phương để phối hợp với gia đình giáo dục học sinh. Mỗi lần về địa phương, bản làng là một lần phải huy động ý chí, quyết tâm lớn, với tinh thần “tất cả vì học sinh thân yêu”.

Giáo viên chủ nhiệm lớp ở các trường trung học phổ thông miền núi hoạt động trong một môi trường đa văn hóa.

Khu vực miền núi phía Bắc là nơi cư trú của đồng bào hơn 30 dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có tiếng nói và chữ viết riêng, có phong tục, đặc điểm văn hóa riêng.

Phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được hình thành từ lâu đời, đã trở thành thói quen trong cách nghĩ, trong nếp sống sinh hoạt hàng ngày. Bà con các dân tộc miền núi có nhiều nét truyền thống văn hóa đẹp, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau trong hoạn nạn, trung thực, chất phác, cần cù trong lao động, dũng cảm trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược.

Tuy nhiên, ở miền núi phía Bắc vẫn còn tồn tại một số phong tục, tập quán lạc hậu, có nơi còn nặng nề, làm cản trở sự phát triển kinh tế - văn hóa như: tín ngưỡng, thờ cúng, ma chay, lễ hội, cưới xin... Nạn tảo hôn nhiều nơi còn phổ biến, có những học sinh ở lứa tuổi trung học phổ thông đã bỏ học lấy vợ, lấy chồng, sinh con. Điều này đã gây trở ngại lớn cho công tác giáo dục nói chung và cho công tác của GVCN nói riêng.

Trong một lớp học ở THPT vùng miền núi, GVCN phải quản lí và giáo dục học sinh thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, GVCN cần phải biết tiếng dân tộc, hiểu được văn hóa của các dân tộc, hiểu được đặc điểm tâm - sinh lí của học sinh các dân tộc khác nhau.

Giáo viên chủ nhiệm trung học phổ thông miền núi phải quản lí và giáo dục học sinh trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn.

Các trường THPT vùng miền núi, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và giáo dục, cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin,...là những cản trở đối với người GVCN trong quản lí và giáo dục học sinh; trong khai thác thông tin để nâng cao năng lực chuyên môn, phát triển nghề nghiệp.

Giáo viên chủ nhiệm lớp ở các trường trung học phổ thông miền núi ngoài nhiệm vụ quản lí và giáo dục học sinh, còn phải làm công tác tuyên truyền, vận động, cộng đồng dân cư, làm thay đổi nhận thức về vai trò của giáo dục, về sự cần thiết tham gia xã hội hóa giáo dục.

GVCN là người tuyên truyền, vận động cha mẹ học sinh và cộng đồng thay đổi nhận thức, thái độ về vai trò của giáo dục.

GVCN là người vận động gia đình tạo điều kiện để con em được đi học; tham gia vào các hoạt động phối hợp giáo dục học sinh.

GVCN là người vận động học sinh đến trường, khuyến khích các em phấn đấu học tiếp lên cấp học cao hơn.

Học sinh các dân tộc miền núi là hiền lành, thật thà, thẳng thắn, có lòng tự trọng cao, nhưng dễ tự ái, nóng nảy, có gì không vừa lòng là tỏ thái độ ngay. Các em thường rất tin vào giáo viên, nghe theo lời thầy cô dạy bảo, nhất là những người đã tin cậy, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm. Khi đã tin tưởng, các em cố gắng thực hiện bằng được những công việc mà giáo viên chủ nhiệm giao cho, nhiều em còn bắt chước cả tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ... coi giáo viên chủ nhiệm như một hình mẫu.

Học sinh miền núi thuộc nhiều dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng, khi giao tiếp với nhau các em sử dụng ngôn ngữ của mình, khi đến trường, đến lớp tất cả sử dụng tiếng phổ thông, hiện tượng giao thoa ngôn ngữ làm cho các em phát âm không chuẩn, hiểu ý nghĩa của từ ngữ chưa đầy đủ chính xác.

Khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn hạn chế, nên việc học tập có khó khăn, các em thường rụt rè, tự ti, ngại giao tiếp với người lạ, nếu bị phê bình với lời lẽ nặng nề, hoặc kết quả học tập thua kém bạn bè, sợ bị chê cười, các em có những biểu hiện không bình thường, nếu giáo viên chủ nhiệm không hiểu, không thông cảm thường cho là “thiếu lễ độ”, các em mặc cảm, dễ xa lánh thầy, cô giáo và có thể dẫn đến bỏ học.

Do điều kiện học tập còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, môi trường sống chưa thuận lợi, nên nhận thức của học sinh miền núi thường chậm hơn so với học sinh miền xuôi, khi gặp khó khăn trong học tập dễ nản chí, tự ti cho rằng mình không thể học được. Cộng với việc học tập chưa được coi trọng trong nhân dân, lại thiếu động lực thúc đẩy nên chất lượng học tập của học sinh miền núi nói chung còn thấp. Các em rất thích các hoạt động vui chơi đặc biệt là các trò chơi dân tộc, nhưng các em còn thiếu nhiều kĩ năng hoạt động, thiếu kĩ năng sống trong những điều kiện xã hội mới.

Ở THPT miền núi, thái độ nhiệt tình quan tâm chăm sóc của giáo viên đến học sinh có ý nghĩa giáo dục rất lớn, đồng thời cũng phải đề ra những yêu cầu hợp lí để khuyến khích các em phấn đấu vươn lên.

Giáo viên chủ nhiệm lớp ở các trường THPT miền núi là người dân tộc thiểu số bản địa có tỷ lệ rất thấp

Giáo viên ở các trường THPT miền núi là người dân tộc thiểu số bản địa rất thấp, đa phần từ các vùng miền khác đến công tác.

Bộ phận GVCN người địa phương, am hiểu văn hóa của một dân tộc, nhưng học sinh trong một trường lại có nhiều dân tộc khác nhau, nên chưa có thể nói là đã hoàn toàn thuận lợi.

Trong khi đó, bộ phận giáo viên miền xuôi lên công tác lại không biết tiếng dân tộc, thiếu hiểu biết về văn hóa, phong tục, tập quán địa phương, về đặc điểm tâm lý học sinh, nên gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp, trong quản lí, giáo dục học sinh và trong phối hợp giáo dục với chính quyền địa phương và gia đình. Công tác ở vùng khó khăn như trên nên đa số giáo viên chưa thật an tâm công tác lâu dài mà luôn tìm cơ hội để chuyển về xuôi.

Trên đây là những nét đặc thù của GVCN ở vùng miền núi mà chúng tôi xác định được thông qua nghiên cứu. Điều này có liên quan mật thiết đối với chất lượng giáo dục của địa bàn.